
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà (bên phải) và TS. Hà Công Anh Bảo (giữa) chụp ảnh lưu niệm cùng các nhà khoa học, chuyên gia pháp lý tham dự Hội thảo khoa học “Đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống: Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” (Hội thảo do Viện IBLA và Tạp chí Pháp lý tổ chức)
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập khu vực diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nhiều quốc gia đã trở thành Thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization, WTO), ký kết nhiều hiệp định thương mại (Free Trade Agreement, FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới điều chỉnh nhiều vấn đề mang tính chất phi thương mại (như môi trường, lao động, phát triển bền vững…) và các hiệp định đầu tư quốc tế (International Investment Agreements, IIA). Đồng thời, nhiều quốc gia như Liên minh châu Âu hay Hoa Kỳ, gần đây, đã ban hành nhiều chính sách, quy định mới liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế, từ đó, có thể làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để có thể tham gia hiệu quả vào các thiết chế, hiệp định và đáp ứng các quy định mới nêu trên, việc phát triển đội ngũ chuyên gia pháp luật tư vấn cho chính phủ trong nhiều vấn đề như đàm phán, ký kết, thực thi các hiệp định thương mại, đầu tư và giải quyết tranh chấp phát sinh. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đây là vấn đề được phần lớn các chính phủ quan tâm với cách tiếp cận vừa có điểm chung và điểm khác biệt.
1. Kinh nghiệm của Singapore
Có thể thấy Singapore không có nhiều tranh chấp về thương mại và đầu tư quốc tế. Do đó, nhu cầu của Chính phủ Singapore, trong lĩnh vực này, tập trung chủ yếu vào việc phát triển đội ngũ luật sư và chuyên gia tư vấn về đàm phán các hiệp định thương mại tự do, các hiệp định về đầu tư cũng như về thực thi các hiệp định đó sau khi đã có hiệu lực. Tuy nhiên, đội ngũ chuyên gia pháp luật về thương mại và đầu tư quốc tế của Singapore vẫn được trau dồi các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để giải quyết các tranh chấp về thương mại và đầu tư quốc tế nếu cần. Đồng thời, với chiến lược cung cấp các dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp và chính phủ nước ngoài, đội ngũ chuyên gia pháp luật về thương mại và đầu tư quốc tế cũng được khuyến khích phát triển.
Để phát triển đội ngũ chuyên gia pháp luật tư vấn cho chính phủ trong lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế, Singapore đã thực hiện một số biện pháp sau đây:
1.1. Xây dựng thiết chế để tư vấn và đại diện cho Chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế
Thứ nhất, hiến định vai trò của Tổng Trưởng lý về tư vấn pháp lý cho Chính phủ
Tổng Trưởng lý là thiết chế được thiết lập tại Singapore từ thời kỳ thuộc địa khi Hoàng gia Anh đã chỉ định Tổng Chưởng lý nhằm mục đích tư vấn pháp lý cho chính quyền thuộc địa mới được thành lập. Hiện tại, Tổng Chưởng lý và Văn phòng Tổng Chưởng lý là thiết chế đã được hiến định trong Hiến pháp của Singapore. Điều 35 khoản 7 Hiến pháp Singapore quy định:
“Tổng Chưởng lý có nhiệm vụ tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề pháp lý và thực hiện các nhiệm vụ có tính chất pháp lý khác có thể được Tổng thống hoặc Nội các trao cho theo thời gian hoặc thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Hiến pháp và văn bản luật khác.”
Có thể thấy Điều 3 khoản 7 Hiến pháp Singapore đã trao cho Tổng Chưởng lý chức năng tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề pháp luật, bên cạnh chức năng công tố. Chức năng được hiến định này rất rộng, bao gồm bất kỳ vấn đề pháp lý nào cho Chính phủ. Việc xác định chức năng tư vấn pháp lý rộng như vậy cho phép Tổng Chưởng lý có thể tư vấn cho Chính phủ tất cả các vấn đề về luật quốc tế, trong đó có những vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế.
Thứ hai, mở rộng vai trò của Tổng Chưởng lý để đại diện cho các hội đồng luật định
Theo Luật về Tổng Trưởng lý (các chức năng bổ sung) năm 2014, sửa đổi năm 2017, Tổng Chưởng lý được bổ sung thêm hai chức năng liên quan đến việc đại diện cho hội đồng luật định (statutory board). Hội đồng luật định là những tổ chức của Chính phủ Singapore có quyền tự chủ để thực hiện những chức năng công quyền và được thành lập bởi các đạo luật công của Singapore. Hiện nay, trong Chính phủ Singapore có hơn 50 hội đồng luật định. Nhiều hội đồng luật định này là các cơ quan chuyên môn có thể đưa ra những quyết định có tác động, ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư, như Cơ quan Quản lý Kế toán và Doanh nghiệp (ACRA), Cơ quan về Xây dựng và Công trình (BCA), Hội đồng về Người tiêu dùng và Cạnh tranh (CCSC), Hội đồng Phát triển Kinh tế (EDB)… Hai chức năng mà Tổng Chưởng lý được bổ sung liên quan đến các hội đồng luật định này là:
- Chức năng đại diện cho các cơ quan nhà nước trong quá trình rà soát tư pháp hoặc trong những vụ việc tại tòa án: Điều 3 khoản 1 của Luật về Tổng Chưởng lý (các chức năng bổ sung) năm 2014, sửa đổi năm 2017 quy định:
“Tổng Chưởng lý có thể đại diện cho một hội đồng luật định trong một rà soát tư pháp do bất kỳ người nào tiến hành liên quan đến quyết định hành chính hoặc văn bản pháp luật nào của hội đồng luật định đó và trong bất kỳ thủ tục tố tụng nào tại tòa án đối với số tiền thanh lý, thiệt hại, bồi thường một cách công bằng nếu lệnh bắt, lệnh cấm, lệnh hủy bỏ hoặc tuyên bố được đưa ra trên cơ sở kết quả rà soát tư pháp khi:
(a) Hội đồng luật định có liên quan yêu cầu Tổng Chưởng lý làm đại diện; (b) Bộ trưởng chịu trách nhiệm về hội đồng luật định đồng ý với sự đại diện đó; (c) Tổng Chưởng lý có ý kiến về việc không có xung đột lợi ích giữa Chính phủ và hội đồng luật định có liên quan; và (d) Tổng Chưởng lý có ý kiến về việc đại diện đó không trái với lợi ích công cộng”.
- Chức năng đại diện cho các cơ quan nhà nước trong các vụ việc tại tòa án khác không thuộc chức năng bổ sung thứ nhất ở trên.
Đối với các thủ tục tố tụng khác không được nói tới tại Điều 3 khoản 1 ở trên, Tổng Chưởng lý cũng có thể đại diện những hội đồng luật định có liên quan.
Như vậy, đối với những vụ việc về thương mại và đầu tư có liên quan đến những hội đồng luật định của Chính phủ Singapore, Tổng Chưởng lý có thể thực hiện chức năng đại diện trong các cuộc rà soát tư pháp hoặc thủ tục tố tụng tại tòa án.
Singapore là một trong những nơi thu hút FDI hàng đầu khu vực. Ảnh: AP
Thứ ba, Văn phòng Tổng Chưởng lý thiết lập các đơn vị chịu trách nhiệm tư vấn cho Chính phủ và đại diện cho các hội đồng luật định.
Để thực hiện những chức năng nêu trên, Văn phòng Tổng chưởng lý đã thiết lập một số đơn vị chuyên trách. Có thể kể đến chức năng của hai đơn vị chính là: Phòng Dân sự (AGC’s Civil Division) và Phòng Đối ngoại (AGC’s International Affairs Division). Cụ thể:
Về Phòng Dân sự, đây là bộ phận thuộc Văn phòng Tổng Chưởng lý, có các chức năng chính sau đây:
- Cung cấp tư vấn pháp lý cho các Bộ và cơ quan nhà nước khác liên quan đến, nhưng không giới hạn ở: luật hiến pháp và hành chính; tài chính công; yêu cầu kỷ luật công chức; thu hồi đất; bảo vệ giới trẻ; hợp đồng; bầu cử; luật cạnh tranh; quan hệ đối tác công tư; luật sở hữu trí tuệ; kháng nghị tới Bộ trưởng theo các đạo luật như Luật về Điện; Luật về Phát thanh truyền hình và Luật Cạnh tranh…
- Soạn thảo và hiệu đính các hợp đồng và các văn bản pháp lý khác như: hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa hoặc dịch vụ của Chính phủ; hợp đồng cho thuê; hợp đồng cho vay; thỏa thuận đầu tư; hợp đồng công nghệ thông tin; thỏa thuận về học bổng.
- Đại diện cho Chính phủ trong các sáng kiến quốc tế có ảnh hưởng đến pháp luật nội địa, như trong khuôn khổ của các Nhóm làm việc thuộc Ủy ban về Luật Thương mại quốc tế của Liên Hiệp Quốc về doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ; hay về thương mại điện tử…
- Đại diện cho Chính phủ Singapore trong các thủ tục tố tụng tại Tòa án mà Chính phủ Singapore là bị đơn; trong các cuộc đàm phán, hòa giải hoặc phương thức giải quyết tranh chấp khác có liên quan đến các vấn đề của luật công, thu hồi đất đai hoặc luật tư (trách nhiệm ngoài hợp đồng; hợp đồng; đất đai; thu hồi công nợ)…
Về Phòng Đối ngoại, đây là bộ phận chịu trách nhiệm thực hiện các chức năng sau đây:
Cung cấp các tư vấn pháp lý cho tất cả các cơ quan chính phủ, hội đồng luật định về các vấn đề có liên quan đến luật quốc tế, trong đó có những vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế; Đại diện cho Singpaore trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương cũng như trong quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế, trong đó có tranh chấp thương mại quốc tế; Tham gia đàm phán và soạn thảo các công cụ pháp lý song phương hoặc đa phương; Tư vấn về việc thực thi trong nước các nghĩa vụ quốc tế của Singapore; Thực hiện và tiến hành các thủ tục hoặc yêu cầu có liên quan đến tương trợ tư pháp hoặc dẫn độ.
Như vậy, có thể thấy Singapore đã xác định rất rõ ràng chức năng của cơ quan có thẩm quyền về tư vấn và đại diện cho Singapore nhằm giải quyết các vấn đề về thương mại và đầu tư quốc tế. Việc xác định rõ ràng như vậy sẽ giúp việc xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư cho Chính phủ trở nên dễ dàng hơn.
1.2. Thiết lập các quy định về luật sư tư vấn cho Chính phủ Singapore
Bên cạnh những quy định trao thẩm quyền trực tiếp cho Tổng Chưởng lý về tư vấn cho Chính phủ đối với các vấn đề thương mại – đầu tư quốc tế, pháp luật Singapore cũng đã thiết lập cơ chế cho phép luật sư tư có thể tham gia hành động nhân danh cho Chính phủ.
Cụ thể, Điều 130 Luật về Nghề luật của Singapore quy định về chi phí của Chính phủ khi chi trả cho những người hoạt động nhân danh trong các vụ việc tại tòa nói chung, trong đó có các vụ việc về thương mại và đầu tư quốc tế. Điều 130 quy định:
“1. Không quy định nào trong Luật này ảnh hưởng tới quyền, được nêu ra tại đây, của Chính phủ khi được đại diện với những người được nêu tại Điều 29(2)(a) để trả các khoản phí mà Chính phủ phải gánh chịu đối với hoặc liên quan tới bất kỳ nguyên nhân hay vấn đề nào.
2. Đối với những nguyên nhân hay vấn đề đó, chi phí của Chính phủ sẽ được tính toán theo các quy tắc hiện hành về tính phí của người bào chữa hoặc người tư vấn nếu người bào chữa hoặc người tư vấn là người không thuộc Chính phủ nhưng lại xuất hiện đại diện cho Chính phủ”.
Những người được nêu tại Điều 29(2)(a) được xác định bao gồm: Tổng Chưởng lý, Phó Tổng Chưởng lý, Tổng Luật sư, Luật sư nhà nước, Phó Công tố viên và bất kỳ người nào có chuyên môn được chỉ định tạm thời để thực hiện chức năng của những người nêu trên để xuất hiện hoặc biện hộ nhân danh cho Chính phủ hoặc nhân danh cho các hội đồng luật định theo quy định của Luật về Tổng Chưởng lý (các chức năng bổ sung) năm 2014, sửa đổi năm 2017.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để trong những vụ việc cụ thể, Tổng Chưởng lý hoặc những người được liệt kê nêu trên có thể thuê những luật sư tham gia vào các vụ việc đại diện cho Chính phủ, trong đó có các vụ việc về thương mại và đầu tư quốc tế.
Như vậy, có thể thấy để thực hiện chức năng tư vấn cho Chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế, Singapore đã chỉ định rõ ràng chức năng của một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm chính là Văn phòng Tổng Chưởng lý. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan này có thể thuê những luật sư, trên cơ sở hợp đồng có trả phí tính theo phí bào chữa hoặc tư vấn hiện hành.
1.3. Về thực tiễn các hoạt động phát triển và bồi dưỡng cho đội ngũ chuyên gia pháp lý về thương mại và đầu tư quốc tế
Các hoạt động này được thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, hoạt động phát triển đội ngũ
Hoạt động phát triển đội ngũ chuyên gia pháp luật về thương mại và đầu tư quốc tế khá được chú trọng. Cụ thể:
Về hoạt động về phát triển đội ngũ cho Phòng Đối ngoại, nhân sự của Văn phòng Tổng Chưởng lý hay của Phòng Đối ngoại được gọi chung là các Chuyên viên Dịch vụ Pháp lý (Legal Services Officer, LSO). Số lượng LSO của Phòng Đối ngoại của Văn phòng Tổng Chưởng lý liên tục được bổ sung. Năm 2011, số lượng chuyên gia pháp lý của Phòng Đối ngoại là 23 người, nhưng đã tăng lên thành 39 người vào năm 2017 và 43 người vào năm 2020. Sự bổ sung kịp thời này đã giúp Singapore đáp ứng được nhu cầu về nhân lực tham gia tư vấn cho Chính phủ nhiều vấn đề về thương mại và đầu tư quốc tế trong bối cảnh Singapore tham gia tích cực vào đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định thương mại và đầu tư quốc tế như RCEP, UKSFTA, CPTPP…Để tăng số lượng các LSO của Phòng Đối ngoại, việc tuyển dụng đã được Ủy ban Dịch vụ Pháp lý Singapore thực hiện thường xuyên (Singapore Legal Service Commission, LSC). Điều kiện để có thể trở thành LSO là tốt nghiệp bằng luật: i) từ Đại học Quốc gia Singapore (National University of Singapore, NUS), Trường Đại học Quản lý Singapore (Singapore Management University, SMU) và Trường Đại học Khoa học xã hội Singapore (Singapore University of Social Sciences, SUSS); hoặc ii) một trường đại học được công nhận của Vương quốc Anh, Australia, New Zealand hoặc Hoa Kỳ và đã vượt qua kỳ thi DipSing hoặc Part A của Kỳ thi Liên đoàn Luật sư Singapore và trở thành “chuyên gia” theo định nghĩa của Luật về Nghề luật. Ngoài ra, LSC còn xây dựng chế độ thực tập sinh, áp dụng cho sinh viên đang theo học bằng luật tại các trường đại học nêu trên. Chế độ thực tập sinh được thực hiện hai lần một năm, thường rơi vào giai đoạn sinh viên được nghỉ học (từ tháng 5 tới tháng 9 và tháng 12 đến giữa tháng 2). Các thông tin về thực tập được đăng tải công khai, từ đó, các sinh viên có nhu cầu thực tập có thể đăng ký và thực hiện quy trình tuyển chọn thực tập sinh theo quy định. Chế độ thực tập sinh này giúp sinh viên có thể hiểu rõ hơn về công việc diễn ra tại các đơn vị có liên quan đồng thời có định hướng nghề nghiệp rõ ràng. Đây cũng là nguồn nhân lực quan trọng có thể bổ sung và trở thành LSO sau này.
Về hoạt động nâng cao kiến thức và kỹ năng cho các LSO của Văn phòng Tổng Chưởng lý, Văn phòng Tổng Chưởng lý đã thành lập Học viện đào tạo (AGC Academy). Học viện có nhiệm vụ bồi dưỡng và nâng cao kiến thức, kỹ năng về pháp luật cũng như về quản lý cho các chuyên viên của Văn phòng Tổng Chưởng lý. Ngoài ra, các chuyên viên của Phòng Đối ngoại còn có thể tham gia các khóa đào tạo hoặc bồi dưỡng tại Singapore hoặc ở nước ngoài về các vấn đề pháp lý quốc tế, trong đó có các vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế.
Đồng thời, trong khuôn khổ của WTO, các chuyên viên của Phòng Đối ngoại thường xuyên được đại diện cho Singapore để tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp với tư cách bên thứ ba. Tính đến tháng 08/2025, Singapore đã tham gia với tư cách bên thứ ba vào 67 vụ tranh chấp và trở thành một trong những quốc gia ASEAN sử dụng tích cực nhất cơ chế này. Báo cáo của LSO năm 2019 cho thấy các chuyên viên của Phòng Đối ngoại, trong năm 2019, đã giúp Singapore tham gia tích cực với vai trò bên thứ ba trong các vụ tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc về thuế quan (WT/DS558, WT/DS562…), tranh chấp giữa Qatar với Các tiểu vương quốc Ả rập (WT/DS576) và với Ả rập Xê út về thương mại và an ninh quốc gia (WT/DS567). Vì hình thức tham gia với tư cách bên thứ ba có vai trò tích cực trong việc đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ về thương mại và đầu tư quốc tế, nên có thể thấy Singapore đã rất tích cực sử dụng hình thức này.
Thứ hai, thiết lập diễn đàn các luật sư công
Để tăng cường sự trao đổi và kết nối giữa các luật sư tư vấn cho Chính phủ, Học viện AGC đã thiết lập Diễn đàn Pháp lý lĩnh vực công (Public Sector Legal Forum, PSLF) từ năm 2018. Đây là nơi để các LSO và các luật sư nội bộ làm việc cho các Bộ trong Chính phủ Singapore trao đổi và tăng cường kết nối nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của Chính phủ. Một trong những hoạt động của Diễn đàn Pháp lý lĩnh vực công là việc tổ chức thường xuyên các hội thảo hoặc tọa đàm chuyên môn (PSLF Seminar Series) từ năm 2019. Hai Hội thảo được tổ chức năm 2019 về “Lấy khách hàng làm trung tâm và Luật sư cho Chính phủ” (Client Centricity & Government Lawyer) và “Các nguyên tắc pháp lý về ủy quyền và Carltona” (Legal Principles on Delegation and Carltona) đã diễn ra thành công đã giúp thúc đẩy các hoạt động trao đổi và bồi dưỡng chuyên môn cho các luật sư tư vấn cho Chính phủ Singapore phát triển mạnh mẽ hơn.
Thứ ba, thiết lập danh sách các công ty luật có cung cấp dịch vụ cho Chính phủ
Để thuận lợi cho hoạt động tư vấn cho Chính phủ nói chung và về thương mại – đầu tư quốc tế nói riêng, danh sách các công ty luật có cung cấp các dịch vụ này đã được thiết lập. Hiện tại, theo danh sách, có 34 công ty luật có thể cung cấp dịch vụ tư vấn cho Chính phủ Singapore, như: HJM Asia Law & Co LLC; CNPLaw LLP; Appleton Luff; Dentons Rodyk & Davidson LLP; Watson Farley & Williams LLP…Các công ty này được thành lập hoặc có văn phòng tại Singapore và có thể cung cấp cho Chính phủ Singapore dịch vụ tư vấn khi cần thiết.
Như vậy, có thể thấy mô hình xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia pháp luật về thương mại và đầu tư quốc tế của Singapore tập trung nhiều vào phát triển một thiết chế thuộc một cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thiết chế này được tăng cường năng lực hàng năm cũng như có sự liên kết với đội ngũ luật sư tư với sự huy động trên cơ sở vụ việc và Chính phủ có trả phí theo phí tư vấn của đội ngũ luật sư tư đó.
2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Từ khi mở cửa nền kinh tế, đặc biệt là sau khi trở thành thành viên của WTO vào năm 2001, nhận thấy còn nhiều hạn chế trong việc phát triển đội ngũ, Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực để phát triển đội ngũ luật sư tư vấn cho chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế. Đội ngũ luật sư tư vấn cho chính phủ Trung Quốc về thương mại và đầu tư quốc tế được xây dựng theo mô hình kết hợp giữa các chuyên gia pháp lý thuộc Bộ Thương mại Trung Quốc và một số công ty luật trong nước. Cụ thể:
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ và xác định thẩm quyền cơ quan đại diện cho Chính phủ trong các vấn đề về thương mại và đầu tư quốc tế

Sau khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO, Vụ Pháp luật và Điều ước quốc tế (Department of Treaty and Law), thuộc Bộ Thương mại Trung Quốc (Ministry of Commerce of People’s Republic of China, viết tắt MOFCOM) đã được chỉ định để trở thành cơ quan đại diện của Trung Quốc tại Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO (The WTO Dispute Settlement Body, viết tắt là DSB) cũng như đảm trách tư vấn trực tiếp cho Chính phủ Trung Quốc về các vấn đề thương mại và đầu tư quốc tế khác. Để thực hiện nhiệm vụ này, Vụ Pháp luật và Điều ước quốc tế đã thành lập một bộ phận mới, đó là Phòng Pháp luật WTO (Division of WTO Law). Phòng này bao gồm một số lượng nhỏ các luật gia trong nước chuyên hoạt động trong lĩnh vực pháp luật thương mại quốc tế và WTO. Tuy nhiên, các luật gia này (bốn đến năm người) lại chưa từng có kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp tại WTO. Đây là một khó khăn không nhỏ đối với Trung Quốc trong những năm đầu tham gia WTO.
Đến năm 2002, Trung Quốc thành lập Phái đoàn thường trực tại WTO. Thời gian đầu, hoạt động của phái đoàn được giao cho một số nhà ngoại giao của Trung Quốc. Nói cách khác, không có bất kỳ một chuyên gia pháp lý nào thuộc thành phần của phái đoàn này trong khoảng một năm rưỡi đầu tiên. Đồng thời, vì lý do kinh phí và điều kiện hoạt động, Phái đoàn thường trực cũng không được giao nhiệm vụ phụ trách việc giải quyết các tranh chấp mà Trung Quốc tham gia tại WTO. Do đó, để giải quyết tình hình này, nhất là để đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích thương mại của Trung Quốc tại WTO, Chính phủ Trung Quốc đã quyết định cung cấp cho phái đoàn những điều kiện làm việc tốt hơn. Đồng thời, từ giữa năm 2003, Trung Quốc đã cử các chuyên gia về pháp luật WTO từ MOFCOM sang làm việc trên cơ sở quay vòng để theo dõi và phụ trách những công việc có liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này. Nhờ việc làm này, Trung Quốc đã trở thành một trong những Thành viên có phái đoàn thường trực tại WTO đông nhất với 18 người, chỉ sau Nhật Bản (20 người) và trên cả Hoa Kỳ (16 người) hay Liên minh châu Âu (15 người).
Sau đó, vào giữa năm 2009, MOFCOM tiếp tục thành lập đơn vị thứ hai phụ trách về giải quyết tranh chấp tại WTO trực thuộc Vụ Pháp luật và Điều ước quốc tế. Vào cuối năm 2009, Chính phủ Trung Quốc quyết định tăng cường năng lực hơn nữa cho Phái đoàn thường trực tại WTO bằng việc cử một nhóm các chuyên gia mạnh nhất của Trung Quốc về pháp luật WTO sang làm việc tại phái đoàn. Việc tăng cường đội ngũ này là cần thiết bởi Trung Quốc đã phải tham gia vào nhiều vụ tranh chấp hơn từ năm 2008 trở lại đây.
Ngoài nguồn nhân lực đến trực tiếp từ hai đơn vị phụ trách giải quyết tranh chấp tại WTO trực thuộc MOFCOM, MOFCOM cũng đã thành lập một nhóm làm việc liên bộ với sự tham gia và hợp tác của nhiều cơ quan nhà nước khác nhau có liên quan đến giải quyết tranh chấp tại WTO. Nhóm làm việc này cho phép MOFCOM có thể huy động thêm nguồn nhân lực đến từ các cơ quan quản lý chuyên ngành để giải quyết các tranh chấp mang tính kỹ thuật hoặc thuộc phạm vi quản lý chuyên ngành của cơ quan đó, đồng thời có thể đưa ra những khuyến nghị mang tính chính sách trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật để đảm bảo sự tương thích của pháp luật Trung Quốc đối với các quy định của WTO. MOFCOM cũng hướng tới soạn thảo và ban hành một cơ chế phối hợp liên bộ trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, vì cần có sự phê chuẩn của Chính phủ, nên hiện tại cơ chế phối hợp liên bộ vẫn chưa được hình thành.
Thứ hai, luật sư tư vấn cho Chính phủ Trung Quốc từ các công ty luật
Trên thị trường Trung Quốc có nhiều công ty luật của Trung Quốc hoặc các công ty luật nước ngoài hoạt động chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế, pháp luật đầu tư quốc tế và giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Đây là nguồn lực khá quan trọng mà MOFCOM có thể huy động thông qua cơ chế hợp tác công – tư cho quá trình giải quyết các tranh chấp về thương mại, đầu tư quốc tế hay tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề liên quan đến thương mại, đầu tư quốc tế khác. Bên cạnh đó, trên cơ sở cơ chế hoạt động nội bộ của MOFCOM, MOFCOM có thể huy động đại diện của các phòng thương mại và công nghiệp của Trung Quốc hoặc các tổ chức phi chính phủ khác tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp trên cơ sở từng vụ việc (case-by-case basic).
Nhằm đối phó với sự gia tăng của các vụ kiện mà Trung Quốc khởi xướng hoặc phải đối mặt, Trung Quốc đã thực thi khá tốt chính sách hợp tác công tư. Nói cách khác, đây vừa là cách thức để chính phủ Trung Quốc “lấp chỗ trống” cho sự thiếu hụt đội ngũ nhân lực pháp luật có liên quan từ các cơ quan nhà nước, đồng thời cũng là cách để phát triển năng lực của các công ty luật tư nhân về lĩnh vực này.
Để thực hiện chính sách này, Trung Quốc đã áp dụng nhiều chiến lược khác nhau. Cụ thể:
- Đối với các vụ tranh chấp mà Trung Quốc là nguyên đơn hoặc bị đơn:
Trong trường hợp này, Trung Quốc thường lựa chọn cách tiếp cận ba bên. Đơn vị phụ trách về giải quyết tranh chấp tại WTO của MOFCOM sẽ giữ vai trò chủ đạo, nhưng sẽ được hỗ trợ từ một công ty luật của nước ngoài và một công ty luật trong nước. Như tác giả Tina Wang đã đánh giá:
“Đối mặt với số lượng các vụ tranh chấp ngày càng tăng tại WTO, đội ngũ nhân lực pháp luật của Trung Quốc không mạnh và nhiều kinh nghiệm bằng các công ty luật lớn của Washington để giải quyết những vụ việc khó khăn với chi phí cao. Bắc Kinh đã giải quyết vấn đề này bằng cách thuê các luật sư nước ngoài để làm việc cùng với các luật sư trong nước”.
Cách tiếp cận này, được áp dụng ngay từ vụ tranh chấp đầu tiên mà Trung Quốc khởi kiện Hoa Kỳ và tiếp tục được áp dụng trong những vụ tranh chấp sau đó, không chỉ giúp Trung Quốc tận dụng được những lời khuyên pháp lý đến từ những công ty luật nước ngoài có kinh nghiệm, mà còn giúp Trung Quốc nâng cao năng lực của các công ty luật ở trong nước trong việc chuẩn bị hồ sơ vụ tranh chấp, tham gia tranh tụng hay các công việc khác có liên quan.
- Đối với các vụ tranh chấp mà Trung Quốc là bên thứ ba:
Trong trường hợp này, Chính phủ Trung Quốc đã trao quyền đại diện cho các công ty luật tư nhân. Các cơ quan chính phủ chỉ tham gia với tư cách là bên cung cấp thông tin và tài liệu. Các công ty như BHP, King & Wood, Jincheng Tongda & Neal, Grrandall Legal Group, Broad & Bright, Scott Liu & Associates, Seafront Law Office…, nhờ vào chính sách này, đã có thể tham gia đại diện cho chính phủ Trung Quốc, chuẩn bị các văn kiện cho vụ tranh chấp, tiến hành trình bày quan điểm trước các ban hội thẩm và/hoặc Cơ quan Phúc thẩm… Có thể khẳng định đây là cách thức hiệu quả nhất để các công ty luật trong nước có thể tiếp cận với pháp luật của WTO, từ việc tham gia trực tiếp vào các khâu và công đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp. Nhờ vậy, kiến thức và kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp của đội ngũ luật sư trong nước sẽ được cải thiện đáng kể.
3. Kinh nghiệm của Brazil
Brazil là nền kinh tế lớn nhất trong khu vực Nam Mỹ, với tốc độ tăng trưởng trong một thời gian dài luôn đạt mức cao. Do đó, Brazil đã được xếp vào nhóm các nước có nền kinh tế mới nổi (BRICs) và tham gia sâu, rộng vào nền thương mại thế giới cũng như là quốc gia thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hiện tại Brazil chưa bị khởi kiện theo cơ chế của ICSID và các doanh nghiệp của Brazil cũng chưa sử dụng cơ chế này trong bất kỳ vụ tranh chấp nào. Trong khi đó, Brazil luôn sẵn sàng sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT hay của WTO để bảo vệ cho các lợi ích thương mại bị ảnh hưởng bởi các biện pháp thương mại nước ngoài. Đồng thời, Brazil cũng phải đối mặt với nhiều vụ kiện liên quan đến chính sách thương mại của nước này, nhất là liên quan đến sự tương thích của chính sách đó với các quy định của GATT hay của WTO. Do đó, những tranh chấp mà Brazil phải giải quyết chủ yếu phát sinh trong khuôn khổ của WTO và Mercosur. Vì vậy, tại Brazil, đội ngũ tư vấn cho Chính phủ chủ yếu được đào tạo và nâng cao kỹ năng để đối phó với các tranh chấp thương mại quốc tế.
Dù phải đối mặt với một số tranh chấp trong khuôn khổ của GATT năm 1947, việc phát triển đội ngũ nhân lực pháp luật phục vụ cho mục đích giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế mới chỉ được chú trọng từ cuối những năm 1990. Điều này cho thấy Brazil cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác phải đối mặt với nhiều khó khăn khi tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp tại WTO. Do đó, Brazil đã phải xây dựng và triển khai nhiều biện pháp để có thể có được một đội ngũ luật sư tư vấn đáp ứng yêu cầu thực tiễn theo đó Brazil phải tham gia ngày càng nhiều vào các tranh chấp thương mại quốc tế. Những biện pháp mà Brazil đã sử dụng bao gồm:
3.1. Xây dựng cấu trúc ba trụ cột trong giải quyết tranh chấp tại WTO
Cấu trúc “ba trụ cột” (three pillar structure) tham gia vào giải quyết tranh chấp tại WTO của Brazil bao gồm: trụ cột thứ nhất, là đơn vị phụ trách giải quyết tranh chấp WTO được đặt tại thủ đô Brasilia; trụ cột thứ hai, phái đoàn thường trực của Brazil tại WTO ở Geneva; và trụ cột thứ ba, bao gồm các chủ thể tư và các công ty luật do các chủ thể tư thuê. Có thể thấy, cấu trúc “ba bên” của Brazil khác với cấu trúc “ba bên” của Trung Quốc, khi ở Brazil, các cơ quan nhà nước (bao gồm đơn vị phụ trách giải quyết tranh chấp ở thủ đô Brasilia và phái đoàn thường trực của Brazil tại WTO) cấu thành hai trụ cột đầu tiên còn lĩnh vực tư chỉ cấu thành trụ cột thứ ba. Với cấu trúc này, Brazil hướng tới có thể bảo vệ những lợi ích thương mại của mình trong các vụ tranh chấp có liên quan tại WTO, đồng thời tạo thuận lợi cho quá trình phát triển đội ngũ luật sư hay chuyên gia pháp luật trong nước của Brazil, nhất là ở lĩnh vực tư, để có thể giúp chính phủ bù đắp khoảng trống do sự hạn chế về nguồn lực của chính phủ trong quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO.
Để cấu trúc này đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả, Brazil đã triển khai một số công việc cụ thể. Đó là:
Thứ nhất, cải tổ đơn vị chuyên trách ở trong nước về giải quyết tranh chấp tại WTO nói riêng và trong thương mại quốc tế nói chung.
Tại Brazil, Bộ Ngoại giao (Ministry of Foreign Affairs) là cơ quan chịu trách nhiệm trước Tổng thống về việc xây dựng và thực thi chính sách đối ngoại của Brazil cũng như trong việc duy trì quan hệ đối ngoại với các quốc gia khác và với các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Cơ quan này, ngay từ khi mới được thành lập, đã được giao phụ trách các vấn đề liên quan đến việc thực hiện các cam kết của Brazil trong khuôn khổ của GATT năm 1947. Do đó, khi WTO ra đời, họ tiếp tục được giao phụ trách các vấn đề liên quan đến WTO, bao gồm cả việc giải quyết các tranh chấp mà Brazil là nguyên đơn hoặc bị đơn.
Tuy nhiên, dù Bộ Ngoại giao ngày càng coi trọng việc tham gia của Brazil vào WTO, thì trong một thời gian dài, Bộ Ngoại giao chưa thành lập cơ quan chuyên trách vấn đề này. Trước năm 2001, tất cả các vấn đề liên quan đến đàm phán thương mại trong khuôn khổ WTO và một số hiệp định thương mại khu vực đều thuộc thẩm quyền giải quyết chung của Vụ Đầu tư Hàng hóa (Investment Goods Department). Cơ quan này đã không thể đảm đương được hết tất cả các công việc, nhất là trong bối cảnh những vụ tranh chấp mà Brazil tham gia tại WTO ngày càng tăng lên.
Do đó, vào năm 2001, khi Đại sứ Celso Lafer, trưởng phái đoàn thường trực của Brazil tại WTO về nước nhận nhiệm vụ làm Bộ trưởng Ngoại giao, Vụ Đầu tư Hàng hóa đã được tái cấu trúc với việc được chia thành sáu đơn vị và được bổ sung thêm nhiều nguồn lực khác để có thể đảm trách các công việc có liên quan trong bối cảnh mới. Các vấn đề về WTO nói riêng và về thương mại quốc tế nói chung, sau sự phân chia này, thuộc thẩm quyền của Ban thư ký chung về Hội nhập kinh tế và Ngoại thương (General Under-Secretariat for Matters of Integration Economics and Foreign Trade). Đồng thời, trong khuôn khổ của Ban thư ký này, Đơn vị Giải quyết Tranh chấp Chung (General Dispute Settlement Unit, viết tắt là GDSU) được hình thành, trên cơ sở Nghị định số 3.959 ngày 10/10/2001 về cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao, với số lượng chuyên gia ban đầu là sáu người, được tuyển chọn từ những chuyên gia pháp lý hàng đầu của Brazil về pháp luật thương mại quốc tế và những nhà ngoại giao từng làm việc cho phái đoàn thường trực của Brazil tại WTO.
Như vậy, từ nhu cầu của thực tiễn, một đơn vị chuyên trách về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế đã được thành lập trong cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao Brazil. Việc làm này sẽ giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO trở nên chủ động hơn và chuyên nghiệp hơn.

Ảnh minh hoạ
Thứ hai, thành lập phái đoàn thường trực tại WTO và thường xuyên tăng cường đội ngũ cho phái đoàn thường trực
Phái đoàn thường trực tại WTO đã được thành lập và cử sang Geneva ngay trong năm 1995 khi WTO đi vào hoạt động. Trong giai đoạn đầu, phái đoàn thường trực tại WTO có ba nhà ngoại giao, phụ trách toàn bộ các công việc đại diện cho Brazil tại WTO. Đồng thời, họ cũng phụ trách việc đệ trình đơn khởi kiện và theo dõi tiến trình giải quyết tranh chấp. Trong những vụ tranh chấp mà Brazil tham gia với tư cách bên thứ ba, phái đoàn thường trực chịu trách nhiệm đại diện cho Brazil, soạn thảo các văn kiện đệ trình lên ban hội thẩm/Cơ quan Phúc thẩm và thể hiện quan điểm của Brazil trong các phiên họp của ban hội thẩm/Cơ quan Phúc thẩm dành cho bên thứ ba. Cả ba nhà ngoại giao này đều được đào tạo và có kiến thức chuyên sâu về WTO, nên việc tham gia phụ trách vấn đề giải quyết tranh chấp tại WTO không phải là khó khăn và thử thách đối với họ.
Trong bối cảnh số lượng vụ tranh chấp mà Brazil có tham gia tại WTO ngày càng tăng, Bộ Ngoại giao đã thường xuyên bổ sung người cho phái đoàn thường trực theo nguyên tắc quay vòng. Đây cũng là cách thức để tăng hiệu quả và khả năng tham gia vào giải quyết các vụ tranh chấp tại WTO của Brazil.
Có một điểm đáng chú ý là trong những năm gần đây, trưởng phái đoàn thường trực của Brazil tại WTO sau khi hoàn thành nhiệm kỳ của mình tại Geneva thường được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao của Brazil. Điều này có ý nghĩa hết sức đặc biệt trong quá trình phát triển đội ngũ nhân lực pháp luật tham gia giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư quốc tế tại Brazil, bởi vì, các đại sứ - trưởng phái đoàn thường trực của Brazil tại WTO là những người hiểu được các vấn đề cần phải giải quyết và cải thiện của đội ngũ nhân lực này, khi trở thành bộ trưởng ngoại giao, có thể đưa ra những chính sách phù hợp và huy động được những nguồn lực cần thiết để có thể phát triển được một đội ngũ nhân lực pháp luật đáp ứng yêu cầu.
Thứ ba, thiết lập cơ chế phối hợp liên bộ về giải quyết tranh chấp
Bên cạnh những đơn vị trực tiếp tham gia vào giải quyết tranh chấp tại WTO như đã nêu ở trên, Brazil còn thiết lập một cơ chế phối hợp liên bộ để tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh. Cụ thể, theo cơ chế này, GDSU sẽ xác định các vụ tranh chấp trong tương lai có thể xảy ra trên cơ sở thông tin được cung cấp bởi các doanh nghiệp, hiệp hội hay các cơ quan nhà nước khác. Sau đó, GDSU sẽ chuyển thông tin liên quan cho các bộ phận khác phụ trách các vấn đề mang tính chất nội dung của vụ tranh chấp trong Bộ Ngoại giao. GDSU cũng chuyển vụ việc cho những cơ quan nhà nước khác có liên quan (như Bộ Phát triển, Công nghiệp và Thương mại đối với các vấn đề liên quan đến lĩnh vực công nghiệp; Bộ Nông nghiệp đối với các vấn đề liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp), để yêu cầu họ tiến hành những điều tra sơ bộ và thu thập dữ liệu.
Nhằm thúc đẩy quá trình điều tra sơ bộ và thu thập dữ liệu, Phòng Ngoại thương liên bộ (Inter-Ministerial Foreign Trade Chamber, viết tắt là CAMEX (Câmara de Comério Exterior, theo tiếng Bồ Đào Nha)) được thành lập. Cơ quan này, tập hợp các chuyên gia đến từ bảy bộ khác nhau, chịu trách nhiệm chính trong việc ban hành, thông qua, thực thi và phối hợp chính sách về thương mại hàng hóa và dịch vụ. Đối với các tranh chấp trong khuôn khổ của WTO và các tổ chức hội nhập kinh tế khu vực khác, CAMEX là cơ quan sẽ quyết định có khởi kiện theo cơ chế của WTO hay theo cơ chế khu vực; có phải tiến hành sửa đổi pháp luật trong nước để phù hợp với những khiếu kiện chống lại Brazil; hay chính phủ nước ngoài đã thực thi các phán quyết của WTO hay không.
Theo cơ chế phối hợp giữa CAMEX và GDSU, một khi CAMEX quyết định sẽ khởi kiện một Thành viên khác lên DSB, quyết định đó sẽ được chuyển sang cho GDSU và GDSU là cơ quan phụ trách tiến hành các khâu còn lại của quá trình giải quyết tranh chấp. Trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp, theo cơ chế phối hợp, GDSU cũng có thể tham vấn các cơ quan chính phủ khác để lựa chọn một chiến lược phù hợp cho việc giải quyết các tranh chấp đó.
Cũng cần lưu ý là, đối với những tranh chấp mà Brazil tham gia với tư cách bên thứ ba, quyết định tham gia đó thuộc thẩm quyền của Bộ Ngoại giao mà không thuộc thẩm quyền của CAMEX. Một khi Bộ Ngoại giao quyết định tham gia vào vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba, GDSU và phái đoàn thường trực của Brazil tại WTO ở Geneva sẽ phối kết hợp để thực hiện các công việc có liên quan.
3.2. Đào tạo đội ngũ nhân lực về pháp luật thương mại và đầu tư quốc tế
Việc đào tạo đội ngũ nhân lực pháp luật tham gia vào giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư quốc tế của Brazil được thực hiện thông qua hai con đường: đào tạo tại các cơ sở đào tạo về luật và thông qua chương trình thực tập sinh tại phái đoàn thường trực của Brazil tại WTO ở Geneva.
Để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm của các luật sư thuộc lĩnh vực tư về pháp luật thương mại quốc tế và về WTO, Brazil đưa ra chương trình tuyển thực tập sinh làm việc cho phái đoàn thường trực của mình tại WTO. Các thực tập sinh được tuyển chọn sẽ sang Geneva làm việc trong thời gian từ ba đến sáu tháng, với nhiệm vụ chính là giúp đỡ các chuyên gia trong phái đoàn thường trực tìm kiếm thông tin và chuẩn bị bộ hồ sơ cho vụ tranh chấp mà Brazil tham gia. Chương trình này, được Brazil triển khai từ năm 2002 và tiếp tục đến bây giờ, được đánh giá là khá hiệu quả khi nhiều lượt luật sư và chuyên gia trong nước đã được cử sang thực tập và về nước tiếp tục giúp đỡ các cơ quan chính phủ trong quá trình giải quyết các tranh chấp thương mại – đầu tư quốc tế phát sinh có liên quan đến Brazil. Cùng với một chương trình thực tập sinh khác được Bộ ngoại giao triển khai để cử các thực tập sinh sang làm việc tại đại sứ quán Brazil ở Hoa Kỳ để trợ giúp trong các vụ kiện chống bán phá giá mà Hoa Kỳ thực hiện đối với hàng hóa nhập khẩu từ Brazil, các chương trình này đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực pháp luật tham gia giải quyết tranh chấp thương mại – đầu tư quốc tế của Brazil.
4. Kinh nghiệm của Chile
Khác với Brazil, Chile phải giải quyết nhiều tranh chấp ở trong cả lĩnh vực thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. Do đó, việc đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư và chuyên gia tư vấn cho Chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế được Chính phủ Chile rất chú trọng. Chính phủ Chile đã thực hiện và triển khai một số biện pháp cụ thể trong lĩnh vực này như:
4.1. Thiết lập hai cơ chế khác nhau để giải quyết các tranh chấp về thương mại quốc tế và về đầu tư quốc tế
a. Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của Chile
Chile đã ký kết hơn 50 hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các quốc gia đối tác. Phần lớn các hiệp định này đều cho phép các tranh chấp giữa chính phủ Chile với nhà đầu tư nước ngoài sẽ được giải quyết bằng trọng tài quốc tế. Năm 1991, Chile đã gia nhập Công ước Washington năm 1965, do đó, nhiều tranh chấp đã được khởi kiện theo cơ chế của ICSID. Để có thể bảo vệ quyền lợi của Chile trong các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế này, Chile đã ban hành Chương trình Tự vệ trong giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng tài (Program of Defense in Foreign Investment Arbitrations). Chương trình này, được ban hành theo Thông tư số 523 năm 1993 của Bộ Kinh tế, Phát triển và Tái thiết Chile, trao cho Ủy ban Đầu tư Nước ngoài (Foreign Investment Committee) nhiệm vụ đại diện cho Chile trong các vụ tranh chấp mà ở đó chính phủ Chile bị khởi kiện bởi các nhà đầu tư nước ngoài. Khi cần thiết, Ủy ban Đầu tư Nước ngoài có thể huy động nguồn lực từ bên ngoài, thông qua cơ chế hợp tác công – tư.
Năm 2015, Luật số 20.848 về Thiết lập cơ sở pháp lý điều chỉnh đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Chile và các thiết chế tương ứng (Law no 20.848 Establishes the framework for foreign direct investment in Chie and creates the corresponding institutional framework) được ban hành. Theo Luật mới, Văn phòng Khuyến khích Đầu tư Nước ngoài (Foreign Investment Promotion Agency, FIPV) được thành lập thay thế cho Ủy ban Đầu tư Nước ngoài. Do đó, Chương trình Tự vệ trong giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng tài tiếp tục được giao cho Văn phòng Khuyến khích Đầu tư Nước ngoài thực hiện. Điểm đáng lưu ý là điều 16 và 17 của Luật này đã quy định khá rõ cơ chế phối hợp giữa FIPV với các cơ quan nhà nước và chủ thể tư trong quá trình giải quyết tranh chấp đầu tư với các nhà đầu tư nước ngoài. Nói cách khác, FIPV có thể huy động nhân lực từ các cơ quan nhà nước khác cũng như từ các công ty luật và chủ thể tư khác của Chile trong quá trình thu thập thông tin, tài liệu, bằng chứng và tham gia tranh tụng để giải quyết các tranh chấp đầu tư có liên quan.
b. Cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của Chile
Đối với các tranh chấp thương mại quốc tế, dù ngoại thương của Chile chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của thế giới, nó lại giữ một vai trò quan trọng đối với Chile khi đóng góp tới 50% GDP của nước này. Do đó, Chile sẵn sàng sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế để bảo vệ quyền lợi của mình. Nhằm huy động các nguồn lực phục vụ mục đích giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế liên quan đến Chile, Chile đã xây dựng một cơ chế riêng. Ra đời năm 2005, cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của Chile trao nhiệm vụ đại diện và cơ quan đầu mối cho Phòng Pháp chế thuộc Vụ Thương mại, Bộ Ngoại giao Chile (Legal Division of the Trade Directorate of the Ministry of Foreign Affairs, DIRECON). Đồng thời, cơ chế này đã đưa ra những quy tắc cho phép DIRECON phối hợp với các chủ thể có liên quan, như với các cơ quan chính phủ khác, với lĩnh vực tư hay với cộng đồng. Riêng đối với lĩnh vực tư, để tăng cường sự tham gia của nhóm chủ thể này vào quá trình thực thi các hiệp định thương mại nói chung và giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế nói riêng, Chile đã thành lập Hội đồng Công Tư về Thúc đẩy Xuất khẩu (Public Private Council for Exports Development). Đây được coi là một diễn đàn đối thoại và tham vấn giữa các cơ quan nhà nước với lĩnh vực tư, qua đó, cho phép lĩnh vực tư có quyền bày tỏ ý kiến, trình bày các sáng kiến để đảm bảo quyền lợi của Chile trong việc thúc đẩy xuất khẩu cũng như trong giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, Chile đã thiết lập chỉ số về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Chỉ số này được tính toán và công bố hai năm một lần với mục đích đánh giá DIRECON đã giải quyết như thế nào đối với các khiếu kiện về thương mại mà lĩnh vực tư đã yêu cầu DIRECON giải quyết. Việc xây dựng chỉ số này cho thấy sự quyết tâm của Chính phủ Chile trong việc bảo vệ lợi ích thương mại của các chủ thể tư thông qua việc DIRECON giải quyết các khiếu kiện. Đứng từ góc độ khác, nó sẽ thúc đẩy các chủ thể tư yêu cầu DIRECON bảo vệ lợi ích khi họ gặp phải các rào cản thương mại khi tiến hành các hoạt động kinh doanh ở thị trường nước ngoài.
4.2. Đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư và chuyên gia tư vấn cho Chính phủ về thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế
Thứ nhất, xây dựng luật sư và chuyên gia trong nước của Chile
Đây là một trong những biện pháp được triển khai đầu tiên để nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực pháp luật tham gia giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của Chile. Để triển khai biện pháp này, Chile đã thực hiện một số công việc cụ thể như:
- Tận dụng trợ giúp kỹ thuật từ nước ngoài và từ WTO: DERECON đã kết hợp với Ban thư ký của WTO tổ chức nhiều khóa học ngắn hạn và trung hạn về WTO hay về cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này. Có thể kể đến Chương trình đào tạo chuyên sâu về giải quyết tranh chấp và các án lệ của WTO (Advanced course on WTO Dispute Settlement and relevant jurisprudence) được tổ chức từ năm 2005. Chương trình này không chỉ tập trung phân tích các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO mà còn nhấn mạnh đến sự phát triển của các án lệ, trong đó nhấn mạnh đến các án lệ có liên quan đến các nguyên tắc đối xử bình đẳng, các biện pháp tự vệ hay các biện pháp chống bán phá giá. Đây đều là những vấn đề mà các cơ quan chính phủ và giới doanh nghiệp của Chile quan tâm. Bên cạnh đó, một số chương trình ngắn hạn với sự tham gia của các chuyên gia đến từ WTO cũng đã được Chile tổ chức để giới thiệu và phân tích cho giới doanh nghiệp Chile các quy định có liên quan của WTO.
Ngoài những hỗ trợ kỹ thuật từ WTO, Chile cũng đã tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật từ Viện Thương mại Thế giới thuộc Đại học Berne (Thụy Sỹ) nhằm nhận tài trợ cho các nghiên cứu về thương mại quốc tế được thực hiện bởi các giảng viên của trường Đại học Chile (University of Chile). Thông qua chương trình này, một số nghiên cứu đã được nghiệm thu và đăng tải trên website của dự án. Có thể nói, đây là cách thức khá hiệu quả để nâng cao trình độ nghiên cứu và kiến thức cho các giảng viên và nhà nghiên cứu của Đại học Chile về các vấn đề có liên quan đến thương mại quốc tế.
- Triển khai các chương trình đào tạo về thương mại quốc tế, pháp luật thương mại quốc tế và WTO tại các trường và viện nghiên cứu của Chile. Nhiều trường đại học của Chile đã đưa môn học Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế vào chương trình đào tạo sau đại học về pháp luật thương mại quốc tế, ví dụ như tại Đại học Chile hay tại Đại học Catholic Chile (Catholic University of Chile) … Ngoài ra, Trường luật của Đại học Catholic Chile đã thành lập một trung tâm đào tạo và nghiên cứu riêng về thương mại quốc tế có tên gọi là Trung tâm về Thương mại Quốc tế (Center for International Trade). Chương trình thạc sỹ về Luật Quốc tế, Đầu tư, Thương mại và Trọng tại cũng được Đại học Chile phối hợp với Đại học Heidelberg (Đức) tổ chức từ gần 10 năm nay cũng đã góp phần đào tạo ra nhiều học viên có kiến thức chuyên sâu về thương mại quốc tế và sử dụng tốt tiếng Anh trong môi trường pháp lý.
Thứ hai, xây dựng và thực thi dự án nâng cao năng lực với Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ.
Đây là dự án được DIRECON thực hiện với mục đích huy động những nguồn lực cần thiết cho quá trình đàm phán và thực thi những hiệp định thương mại tự do mà Chile tham gia. Trên cơ sở thỏa thuận giữa DIRECON và Ngân hàng Phát triển liên Mỹ (Inter-American Development Bank, IDB), dự án bao gồm bốn hợp phần: hợp phần thứ nhất hướng đến nâng cao năng lực quản lý của DIRECON trong việc thực thi các hiệp định thương mại; hợp phần thứ hai gồm các hoạt động để trợ giúp cho việc tuân thủ và áp dụng một cách hiệu quả các cam kết của Chile trong các hiệp định thương mại; hợp phần thứ ba hướng đến mở rộng khả năng xuất khẩu của nền kinh tế Chile thông qua việc tận dụng những lợi thế mà các hiệp định thương mại được Chile ký kết mang lại; và hợp phần cuối cùng có mục đích cải thiện hệ thống xử lý thông tin và công nghệ có liên quan. Như vậy, hai hợp phần đầu tiên của dự án đều hướng đến nâng cao năng lực cho đội ngũ của DIRECON nói riêng và của Chile nói chung liên quan đến việc thực thi các hiệp định thương mại của Chile. Trên cơ sở này, nhiều hoạt động cụ thể đã được thiết kế và triển khai. “Chương trình đào tạo nâng cao năng lực về giải quyết tranh chấp thương mại” (Training program for capacity building in trade disputes and conflicts) được thực hiện để cung cấp và nâng cao hiểu biết của đội ngũ nhân lực thuộc DIRECON về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, từ đó, có thể bảo vệ cho lợi ích của Chile trong các tranh chấp thương mại có liên quan.
Một chương trình đào tạo khác, mang tính chất nâng cao về thủ tục tố tụng theo các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, đã được triển khai thông qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, một nhóm các chuyên gia pháp luật của DIRECON được cử đến đào tạo tại Geneva; giai đoạn thứ hai, những người tham gia sẽ được làm việc tại các công ty luật chuyên về pháp luật thương mại quốc tế hay về WTO. Trong giai đoạn thứ nhất, các chuyên gia này sẽ được đào tạo chuyên sâu về DSU, phân tích các vụ tranh chấp, đào tạo các kỹ năng về chuẩn bị cho vụ tranh chấp, chuẩn bị văn kiện viết, kỹ năng tranh tụng trước ban hội thẩm, cơ quan phúc thẩm hay trong thủ tục trọng tài. Khoảng thời gian đào tạo tại Geneva cho phép các chuyên gia này có được nhiều kiến thức thực tiễn cũng như nâng cao mối liên hệ với các công ty luật, luật sư và các chuyên gia trong Ban thư ký của WTO và của các tổ chức khác. Còn trong giai đoạn thứ hai, khi được phân về làm việc tại các công ty luật chuyên về pháp luật thương mại quốc tế hay về WTO, các chuyên gia sẽ làm việc với chế độ thực tập sinh trong vòng 6 tháng và được tham gia vào giải quyết các vụ tranh chấp cụ thể được đệ trình lên WTO mà công ty luật đó được thuê xử lý.
Dự án này, dù chỉ được triển khai trong vòng 20 tháng, đã tạo ra nhiều sự thay đổi và chuyển biến tích cực đối với đội ngũ chuyên gia phụ trách về pháp luật thương mại quốc tế của DIRECON, nhất là từ góc độ nâng cao kỹ năng chuẩn bị cho vụ tranh chấp và tăng cường khả năng phối kết hợp với các công ty luật.

PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà (bên phải) phát biểu tại Hội thảo Khoa học “Đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống: Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” (Hội thảo do Viện IBLA và Tạp chí Pháp lý tổ chức)
5. Một số bài học rút ra và khuyến nghị
5.1. Một số bài học rút ra
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia về xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia pháp lý tư vấn cho chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế, có thể rút ra một số bài học như sau:
Thứ nhất, xác định rõ đơn vị có thẩm quyền tư vấn cho chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế.
Mô hình của các nước được nghiên cứu đều khá thống nhất ở một điểm là các quốc gia đều xác định cơ quan đầu mối có thẩm quyền tư vấn cho chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế. Mỗi cơ quan có liên quan đó lại thiết lập một đơn vị chuyên trách về thương mại và đầu tư quốc tế. Như vậy, các luật sư hay chuyên gia pháp lý tư vấn cho chính phủ về lĩnh vực này đều làm việc cho Nhà nước.
Thứ hai, các quốc gia đều thiết lập cơ chế phối hợp giữa đội ngũ luật sư, chuyên gia pháp lý làm việc cho Chính phủ với đội ngũ luật sư tư nhân trong nước để tư vấn hoặc đại diện cho Chính phủ trong quá trình giải quyết các tranh chấp về thương mại và đầu tư quốc tế. Cơ chế phối hợp này có thể được thực hiện trên cơ sở từng vụ việc nhưng cũng có thể được thực hiện trên cơ sở một đơn vị thường trực. Trong trường hợp luật sư tư tư vấn cho Chính phủ trên cơ sở vụ việc, họ sẽ được Chính phủ chi trả theo phí tư vấn trên thị trường.
Thứ ba, các quốc gia được nghiên cứu đều triển khai những chương trình hoặc kế hoạch để nâng cao chất lượng, kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ luật sư tư vấn về thương mại và đầu tư quốc tế. Một trong những hoạt động điển hình là tăng cường sự tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với tư cách bên thứ ba, trong đó cho phép các luật sư tư nhân được tham gia cùng với các luật sư làm việc trong lĩnh vực công để chuẩn bị vụ việc, viết các văn kiện đệ trình hoặc trình bày tại các phiên làm việc của ban hội thẩm hoặc của Cơ quan phúc thẩm của WTO. Một số quốc gia (như Trung Quốc…) còn thiết lập chương trình thực tập sinh tại WTO với mục đích cho phép đội ngũ luật sư trong nước được tới thực tập và làm việc tại Phái đoàn đại diện thường trực ở Geneva.
5.2. Một số kiến nghị
Trên cơ sở những kinh nghiệm và phân tích ở trên, để xây dựng và phát triển đội ngũ Luật sư, Luật gia tư vấn cho Chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế, Việt Nam có thể xem xét một số khuyến nghị sau đây:
- Xác định rõ ràng cơ quan có thẩm quyền tư vấn cho Chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế, từ đó, xây dựng cơ chế rõ ràng để thu hút và phát triển đội ngũ chuyên gia pháp lý về thương mại và đầu tư quốc tế để tư vấn cho Chính phủ.
- Thiết lập cơ chế phối hợp giữa đội ngũ Luật gia, Luật sư, chuyên gia pháp lý làm việc cho Chính phủ với đội ngũ luật sư, chuyên gia của lĩnh vực tư để họ có thể cùng tham gia tư vấn và giải quyết các vấn đề có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế cho Chính phủ. Cơ chế phối hợp này nên nhấn mạnh rõ cách thức hoạt động trên cơ sở vụ việc hay việc xây dựng một thiết chế thường trực và có những chính sách cụ thể đi kèm.
- Triển khai các kế hoạch nâng cao chất lượng cho đội ngũ chuyên gia pháp lý tư vấn cho Chính phủ về thương mại và đầu tư quốc tế.
------------------------------
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Attorney General Chambers (Singapore), Annual Report 2019, 2020, p. 25, xem tại: https://www.agc.gov.sg/resources/publications (truy cập ngày 20/08/2025).
2. Fernando Piérola, “Third-party participation in WTO Dispute Settlement Proceeding for Training Purposes”, Global Trade and Customs Journal, 2007, vol. 2, no. 10, pp. 367-368.
3. Gregory Shaffer, Michelle Ratton Sanchez & Barbara Rosenberg, “Brazil’s Response to the Judicialized WTO Regime: Strengthening the State through Diffusing Expertise”, 2006, tr. 25-26, xem tại: http://www.ictsd.org/downloads/2008/05/brazils-response-to-the-judicialized-wto-regime-strengthening-the-state-through-diffusing-expertise.pdf (truy cập ngày 20/08/2025).
4. International Business Publications Inc., Chile: Investment, Trade Laws and Regulations Handbook, Volume 1 – Strategic Information and Basic Laws, Washington, 2015, tr. 261.
5. Joseph A. Conti, “Learning to Dispute: Repeat Participation, Expertise and Reputation at the World Trade Organization”, Law & Social Inquiry, 2010, vol. 35, no. 3, pp. 625-662.
6. Legal Service Commission (Singapore), Annual Report 2017, 2018, p. 49, xem tại: https://www.lsc.gov.sg/publications/annual-reports (truy cập ngày 16/08/2025).
7. Legal Service Commission (Singapore), Annual Report 2020, 2021, xem tại: https://www.lsc.gov.sg/publications/annual-reports (truy cập ngày 16/08/2025).
8. María del Carmen Vásquez Callo Muller, “The Regulation of trade in information and communication technology services in Chile, Colombia and Peru. A comparative analysis of the rules contained in regional trade agreement, SECO Working Paper 16/2014.
9. Mathias Francke, “Chile’s Participation in the Dispute Settlement System: Impact on Capacity Building”, 2006, tr. 3, xem tại: http://dspace.africaportal.org/jspui/bitstream/123456789/28107/1/Chiles%20participation%20in%20the%20dispute%20settlement%20system.pdf?1 (truy cập ngày 25/08/2025).
10. Nguyen Ngoc Ha, L’intervention des tierces parties dans le règlement des différends à l’OMC, L’Harmattan, Paris, 2016, pp. 107-126.
11. Rodrigo Polanco, “Chilean Trade and Investment Agreements with Southern Countries”, SECO Working Paper 1/2015.
12. Singapore Legal Service Commission, Annual Report 2019, 2020, p. 12, xem tại: https://www.lsc.gov.sg/docs/default-source/ar/singapore-legal-service-2019-in-review.pdf (truy cập ngày 15/08/2025).
13. Sofía Boza, “Determinants of SPS notification submissions for Latin American WTO members”, SECO Working Paper 3/2016; Alicia Frohmann, “Environmental Standards and International Trade: Latin American Stakeholders and the EU Environmental Footprint”, SECO Working Paper 7/2015.
14. Stalin Martinez & Francisco Prieto, “International Trade Commitments as Agents of Reform: The Case of mobil telecommunications in Chile”, SECO Working Paper 4/2013.
15. Tina Wang, “China’s Coming of Age in the WTO War”, Forbes, April 20, 2009, xem tại: http://www.forbes.com/2009/04/20/china-wto-trade-markets-economy-law.html (truy cập ngày 15/08/2025).
16. UNCTAD, “Recent Developments in the IIA Regime: Accelerating IIA Reform”, IIA Issues Note, August 2021, xem tại: https://unctad.org/system/files/official-document/diaepcbinf2021d6_en.pdf (truy cập ngày 20/08/2025).
17. Wenhua Ji & Cui Huang, “China’s Path to the Center Stage of WTO Dispute Settlement: Challenges and Responses”, Global Trade and Customs Journal, 2010, vol. 9, no. 5, tr. 371-373.
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà (Viện trưởng Viện Nghiên cứu sáng tạo, giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương)
Theo Phaply.net.vn