1.Đặt vấn đề
Trong xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới hiện nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành đặc trưng nổi bật, thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ về kinh tế và thương mại trên phạm vi toàn cầu và khu vực. Việt Nam, cũng như nhiều quốc gia khác, không thể đứng ngoài tiến trình này mà buộc phải chủ động đưa nền kinh tế gắn kết với nền kinh tế thế giới. Quá trình hội nhập quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội quan trọng, đồng thời đặt ra những yêu cầu cấp bách trong việc xây dựng thể chế pháp lý minh bạch, công bằng và hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể kinh doanh.

Luật gia Lê Đông Triều, Phó Viện trưởng Viện IBLA; Phó Chủ tịch TTTT Thương mại Quốc tế TGAC
Trong bối cảnh đó, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ngày càng được chú trọng như một công cụ hữu hiệu để bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh, nâng cao niềm tin của nhà đầu tư, và thúc đẩy cạnh tranh công bằng. Kinh nghiệm từ các nền kinh tế phát triển nhanh cho thấy, một hệ thống trọng tài hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện thể chế pháp lý, tạo động lực cho tăng trưởng bền vững. Đối với Việt Nam, yêu cầu hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại càng trở nên cấp thiết trong giai đoạn hội nhập sâu rộng và chuyển đổi số hiện nay.
2.Hội nhập quốc tế trong tình hình mới
Trong bài viết “Vươn mình trong hội nhập quốc tế” ngày 03/4/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải có tâm thế, vị thế mới cùng tư duy và cách tiếp cận sáng tạo về hội nhập quốc tế. Sự ra đời của Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới” được xem là một quyết sách đột phá, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập của đất nước. Nghị quyết đã định vị rõ hội nhập quốc tế không chỉ là yêu cầu khách quan, mà còn là động lực quan trọng để đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Điểm nhấn quan trọng của Nghị quyết là sự chuyển đổi tư duy hội nhập:
+ Từ thụ động tiếp nhận sang chủ động đóng góp.
+ Từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ.
+ Từ vị thế quốc gia đi sau sang quốc gia tiên phong trong những lĩnh vực mới.
Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại và các cơ chế giải quyết tranh chấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trọng tài thương mại quốc tế không chỉ là công cụ pháp lý hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, mà còn là thước đo năng lực hội nhập và mức độ tương thích của hệ thống pháp luật Việt Nam với chuẩn mực quốc tế. Để hội nhập “đầy đủ” và “tiên phong”, Việt Nam cần:
+ Chủ động tiếp thu và nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế về trọng tài.
+ Tăng cường công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.
+ Khuyến khích áp dụng các mô hình giải quyết tranh chấp mới như trọng tài trực tuyến, phù hợp với xu thế chuyển đổi số toàn cầu.
Như vậy, hội nhập quốc tế trong tình hình mới không chỉ mở ra cơ hội phát triển kinh tế mà còn đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc nâng cao chất lượng thể chế pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực trọng tài thương mại – nơi Việt Nam vừa cần đảm bảo tính tương thích quốc tế, vừa phải giữ vững bản sắc và lợi ích quốc gia.
3. Yêu cầu đổi mới công tác xây dựng pháp luật
Ngày 30/4/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị đã ký ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”. Đây là một Nghị quyết chuyên đề có ý nghĩa chiến lược, chứa đựng nhiều quyết sách đột phá, toàn diện và thực tiễn, với 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm hiện thực hóa chủ trương lớn của Đảng trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và thi hành pháp luật.
Muc tiêu, lộ trình của Nghị quyết 66 -NQ/TW: đến năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những "điểm nghẽn" do quy định pháp luật. Năm 2027, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp. Năm 2028, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.
Một trong những nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết 66 NQ-TW đề ra là: Đổi mới tư duy, định hướng xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển; trong đó Nghị quyết 66 NQ-TW nhấn mạnh: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, thông thoáng, minh bạch, an toàn, chi phí tuân thủ thấp; triệt để cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư, kinh doanh, hành nghề, thủ tục hành chính bất hợp lý; thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ổn định; Bảo đảm thực chất quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và quyền tự do hợp đồng, sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc gia.
Tập trung xây dựng pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, phi truyền thống như: trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khai thác nguồn lực dữ liệu, tài sản mã hóa... để hình thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất mới, các ngành công nghiệp mới. Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội, cạnh tranh cho trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do, khu kinh tế trọng điểm…
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng cải cách tư pháp. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống dịch vụ pháp lý, hỗ trợ pháp lý, trợ giúp pháp lý, đăng ký biện pháp bảo đảm để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật, quản trị rủi ro pháp lý. Ưu tiên nguồn lực hỗ trợ pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân.
Nghị quyết 66 NQ-TW có điểm mới là: Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công và cơ chế có điều kiện cho phép viên chức được hành nghề luật sư; bảo đảm việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điểm thuận lợi là Việt Nam đã gia nhập Công ước New York 1958 vào tháng 9/1995 và là thành viên Công ước New York 1958 công nhận; Công ước New York 1958 là một Hiệp ước quốc tế do Liên Hiệp quốc bảo trợ, với mục tiêu tạo ra cơ sở pháp lý chung để công nhận và cho thi hành các phán quyết Trọng tài nước ngoài như thể đó là phán quyết Trọng tài trong nước, đồng thời quy định một số căn cứ hạn chế để thi hành phán quyết; với hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên, do vậy phán quyết của Trọng tài thương mại Việt Nam được công nhận và thi hành ở các nước là thành viên Công ước New York 1958; Trọng tài viên và Luật gia, Luật sư Viêt Nam cần nghiên cứu chuyên sâu về Trọng tài quốc tế để nâng cao kỹ năng và kiến thức.
Nghị quyết 66 -NQ/TW đã yêu cầu: Nghiên cứu mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp; có giải pháp khuyến khích, phát triển các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như trọng tài thương mại, hòa giải thương mại; đây cũng là một quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta, vì trước đây đối với ngành Tòa án, để đẩy mạnh cải cách tư pháp và xây dựng một nền tư pháp chuyên nghiệp thì đã xây dựng chế định tố tụng tư pháp là lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá.
Nghị quyết 66 -NQ/TW cũng đã định hướng: Nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế, pháp luật quốc tế: Hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực của các cơ quan, tổ chức Việt Nam để bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, định hình trật tự pháp lý quốc tế; tham gia tích cực vào việc xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế: tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Xử lý tốt các vấn đề pháp lý quốc tế phát sinh, nhất là tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế nhằm kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm quốc tế như về hợp đồng, giải quyết tranh chấp hợp đồng, rà soát tính tương thích của pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế có liên quan mà Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, am hiểu về luật mẫu, tập quán quốc tế có liên quan.
Thực hiện cơ chế đặc biệt thu hút, xét tuyển, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ cao, có kinh nghiệm thực tiễn về pháp luật quốc tế và hợp tác quốc tế về pháp luật, giải quyết tranh chấp quốc tế; xây dựng chiến lược tăng cường sự hiện diện của các chuyên gia Việt Nam trong các tổ chức pháp lý quốc tế và cơ quan tài phán quốc tế.
4. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự hình thành phát triển về pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam
Một trong những yêu cầu quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, nhằm tạo dựng môi trường đầu tư – kinh doanh minh bạch, công bằng và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, quá trình hội nhập và cải cách tư pháp của Việt Nam đã gắn liền với sự phát triển của pháp luật trọng tài:
+ Trước đổi mới: Hệ thống “Trọng tài kinh tế Nhà nước” hoạt động chủ yếu mang tính hành chính, chưa đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập.
+ Sau đổi mới: Chủ trương cải cách tư pháp được khẳng định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, trong đó khuyến khích các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án, đặc biệt là trọng tài thương mại.
+Giai đoạn pháp lệnh: Pháp lệnh số 03/2003/PL-UBTVQH11 về Trọng tài thương mại lần đầu tiên đặt nền móng cho việc công nhận trọng tài như một cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần và xu hướng hội nhập.
+ Luật Trọng tài thương mại 2010: được Quốc hội ban hành ngày 17/6/2010, có hiệu lực từ 01/01/2011, thay thế Pháp lệnh 2003. Luật này đã tạo hành lang pháp lý tương thích hơn với chuẩn mực quốc tế (như Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài) và phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam.
+Thực tiễn thi hành: Sau 14 năm thực hiện, đến cuối năm 2024, cả nước có gần 50 Trung tâm trọng tài thương mại, đội ngũ trọng tài viên ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Trọng tài đã trở thành một kênh giải quyết tranh chấp ngày càng phổ biến, góp phần nâng cao uy tín môi trường đầu tư Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy còn nhiều khó khăn, bất cập: cơ chế hủy phán quyết trọng tài bởi Tòa án vẫn gây nhiều tranh luận; tính hiệu lực và tính thi hành phán quyết trọng tài chưa thực sự ổn định; các quy định về tổ chức và hoạt động của trọng tài viên, trọng tài trực tuyến chưa theo kịp xu hướng số hóa toàn cầu. Chính vì vậy, yêu cầu sửa đổi, bổ sung Luật Trọng tài thương mại đã được nhiều cơ quan, tổ chức chuyên môn và giới học giả đề xuất. Đây là bước đi tất yếu để bảo đảm sự phù hợp của hệ thống pháp luật Việt Nam với thông lệ quốc tế, đồng thời củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư trong tiến trình hội nhập sâu rộng hiện nay.
5. Thành tựu của Việt Nam trong đổi mới, cải cách thể chế
Đảng và Nhà nước ta đã luôn vận dụng và học tập, quán triệt sâu sắc tư tưởng, phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; luôn kiên trì mục tiêu đã xác định, nhưng luôn biết vận dụng, thay đổi các hình thức và phương pháp phù hợp với thời điểm cách mạng; không tuyệt đối hóa một hình thức, một phương pháp nào, nên đã lãnh đạo đất nước ta vượt qua nhiều khó khăn thách thức, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Một trong những phương châm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta là thúc đẩy quan hệ đa dạng và tốt đẹp với tất cả các nước, các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Đảng ta xác định hội nhập quốc tế là chiến lược quan trọng nhằm củng cố vị thế chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc gia, nâng tầm ảnh hưởng của đất nước trên bản đồ thế giới. Hội nhập quốc tế đã từng bước phát triển qua các thời kỳ, từ hội nhập có giới hạn, có chọn lọc, thiên về ý thức hệ, hội nhập kinh tế đơn thuần ban đầu đến "hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện" hiện nay. Lịch sử qua các kỳ Đại hội Đảng đã cho thấy, vào Đại hội Đảng lần thứ IX lần đầu tiên Đảng đề ra chủ trương "hội nhập kinh tế quốc tế"; đến Đại hội Đảng lần thứ XI đánh dấu một bước chuyển trong tư duy từ "hội nhập kinh tế quốc tế" sang "hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực". Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị đã cụ thể hóa đường lối hội nhập quốc tế với chủ trương "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế"; đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, định hướng chiến lược này một lần nữa được phát triển, hoàn thiện hơn thành "chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng có hiệu quả".
Từ chủ trương “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách đổi mới và ban hành nhiều văn bản pháp luật mới, đã có bước tiến lớn rất quan trọng, mang lại những thành tựu to lớn cho đất nước. Để tham gia và thực hiện tốt các hoạt động kinh tế, vai trò của các Trọng tài viên, Luật gia, Luật sư và doanh nhân là rất quan trọng; cần phải có kiến thức nền tảng về một số vấn đề cốt lõi đóng góp trong lĩnh vực xây dựng hệ thống pháp luật có liên quan của nhà nước, đã hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế và có ảnh hưởng đến phát triển nền kinh tế.
Ngày 07/11/2006, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) chính thức công nhận Việt Nam là thành viên thứ 150 cuả tổ chức này. Thời gian qua Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương hoặc đa phương với các nước; nổi bật là vào ngày 08/3/2018, Việt Nam và cùng 10 quốc gia khác đã chính thức ký Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP), đây là một trong những Hiệp định thương mại quan trọng bậc nhất nhằm gỡ bỏ rào cản thương mại giữa 11 nền kinh tế tại các khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Vào ngày 30/6/2019, tại Hà Nội, Hiệp định thương mại tự do giữa liên minh Châu Âu (EU) và Việt Nam (EVFTA) được ký kết, đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA) giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) và các nước thành viên Châu Âu, ngày 22/5/2020 Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XIV đã thẩm tra tờ trình của Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về cơ chế công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp và đầu tư theo Hiệp định EVIPA.
Đảng đã tổng kết, đánh giá: Trong 40 năm đổi mới, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đem lại những kết quả quan trọng, mang tầm vóc lịch sử. Từ một đất nước bị bao vây cấm vận, đến năm 2025, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 34 nước, trong đó có tất cả các thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, các nước lớn; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có quan hệ chính trị, quốc phòng, an ninh phát triển sâu rộng, thực chất. Việc tham gia các thỏa thuận hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế đa phương, nhất là 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã gắn kết Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế chủ chốt, tham gia sâu hơn vào các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, đưa Việt Nam vào nhóm các nước có quy mô thương mại lớn trên thế giới; nằm trong nhóm các nền kinh tế thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài, là một trong các quốc gia có lượng kiều hối lớn trên thế giới.
Hội nhập quốc tế và cải cách thể chế đã tạo động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao vị thế chính trị, đồng thời thúc đẩy sự hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật trọng tài thương mại – một thiết chế gắn chặt với yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững.
6. Giải pháp thực thi pháp luật và yêu cầu đặt ra với trọng tài thương mại
Các thành tựu và cơ hội của quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi, góp phần nâng cao vị thế đất nước trên thương trường thế giới; thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khá lớn; mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp cận thị trường xuất khẩu toàn cầu mà không bị phân biệt đối xử, có thể tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi cung ứng giá trị khu vực và toàn cầu; tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý góp phần đào tạo đội ngũ Trọng tài viên, Luật sư, Luật gia, cán bộ quản lý và doanh nhân, thúc đẩy tăng trưởng và tạo thêm việc làm cho xã hội; từng bước đưa các hoạt động của nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư duy làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thương mại; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam.
Bên cạnh đó thì cũng còn nhiều hạn chế như: giới hạn về lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế trong tất cả các lĩnh vực, nhất là thuế quan, phi thuế quan, đầu tư, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chưa có đủ điều kiên chuẩn bị chu đáo khi hàng rào bảo hộ dần bị xóa bỏ; công tác nghiên cứu và sự phối hợp chưa đạt hiệu quả cao; bộ máy quản lý còn chồng chéo, thủ tục hành chính đã có nhiều cải tiến nhưng vẫn còn nhiều bất cập; hệ thống luật pháp, chính sách quản lý kinh tế thị trường đã có nhiều sửa đổi nhưng vẫn chưa đồng bộ, hoặc thay đổi không có lợi cho quá trình hội nhập; còn có các doanh nhân, doanh nghiệp giới hạn hiểu biết về thị trường thế giới, thiếu kinh nghiệm kinh doanh quốc tế; năng lực quản lý và trình độ công nghệ hạn chế, hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh còn thấp. Thách thức từ hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam gia nhập tham gia các FTA song phương hoặc đa phươnng với các quốc gia thì sức ép lớn nhất là từ thương mại hàng hóa do việc quy định hoặc thỏa thuận cắt giảm thuế quan về 0 theo lộ trình; nói chung thách thức lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.
Như đã nêu ở phần trước, Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định, trong đó có các Hiệp định bảo hộ đầu tư, kể cả các hiệp định song phương và đa phương có các điều khoản quy định về bảo hộ đầu tư; hoặc có điều khoản trong trường hợp cần thiết và trong trường hợp nếu xảy ra, giả thiết khi nhà đầu tư nước ngoài có thể khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra các Cơ quan tài phán quốc tế, đây là thông lệ quốc tế đã có áp dụng; Nếu gặp phải điều này phía Cơ quan Chính phủ cũng có thể gặp lúng túng, bị động. Do áp lực ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, có thể Quốc hội Việt Nam do quy trình bổ sung, sửa đổi các Luật chưa đáp ứng kịp thời tiêu chí của các Hiệp định quốc tế. Ngoài ra, kinh nghiệm và khả năng của các cơ quan nhà nước có liên quan được giao nhiêm vụ có thể còn thiếu kinh nghiệm với các tổ chức trọng tài quốc tế như Trung tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp về đầu tư (ICSID), hoặc Tòa trọng tài quốc tế (ICC), và chi phí tố tụng, chi phí luật sư cho các vụ kiện này rất cao, nếu có tranh chấp xảy ra. Do vậy, cần thiết đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên viên các cơ quan nhà nước có liên quan và đội ngũ luật sư, trọng tài viên, có trình độ và năng lực, thông thạo ngoại ngữ, để giúp Chính phủ và các tổ chức, doanh nghiệp trong các vụ tranh chấp quốc tế xảy ra.
Trong hệ thống pháp luật, thì pháp luật về đầu tư là nội dung mà các doanh nghiệp rất quan tâm, để đảm bảo đầu tư kinh doanh đúng luật, phòng tránh rủi ro pháp lý. Pháp luật đầu tư của Việt Nam hiện nay đã bước đầu tạo nên một hành lang pháp lý bình đẳng, chung cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường đầu tư tại Việt Nam. Các định chế pháp luật có liên quan đến các hoạt động đầu tư, bao gồm các chế định và các quy định pháp luật tại: Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2025, Luật Đầu tư văn bản hợp nhất năm 2025, Luật Lao động 2019, Luật Đất đai 2024, Luật Xây dựng 2024, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 văn bản hợp nhất, Luật Nhà ở 2024; Luật Thương mại 2005; Luật Điều ước quốc tế 2016; Luật Quản lý Thuế sửa đổi 2025, …đã và cần tiếp tục điều chỉnh các khía cạnh khác nhau trong quá trình đầu tư kinh doanh vốn rất đa dạng tại Việt Nam, đồng thời các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia đã trở thành một bộ phận quan trọng và tạo cơ sở thúc đẩy cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và các doanh nghiệp nước ta tìm cơ hội đầu tư ra nước ngoài.
Một giải pháp nữa là cần tích cực thông tin tuyên truyên để người dân, doanh nghiệp và các đối tượng khác có nhu cầu hiểu biết nhiều hơn về hoạt động của Trọng tài thương mại Việt Nam. Cải cách giải pháp khi tuyên truyền, phổ biến giáo dục, trợ giúp pháp lý cho người dân, doanh nghiệp và các đối tượng khác quan tâm. Ví dụ phổ biến về: Thẩm quyền “giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai”được quy định tại khoản 5, Điều 236 Luật Đất đai năm 2024, người dân, doanh nghiệp có thể thông qua Trung tâm Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo pháp luật Trọng tài thương mại, thủ tục nhanh gọn và thuận lợi hơn, thay vì đưa ra Tòa án giải quyết theo quy định về tố tụng dân sự; đây là điểm mới mà pháp luật quy định thẩm quyền cho Trọng tài thương mại, đồng thời cũng sẽ làm giảm tải áp lực cho Tòa án. Hoặc giải thích về “Hình sự hóa các quan hệ dân sự kinh tế” là sự can thiệp trái pháp luật của các cơ quan tố tụng trong sự việc vận dụng bình thường của các giao dịch dân sự, kinh tế; đã xâm hại đến các cơ quan dân sự, kinh tế. Vì thế, không được hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế; đó chính là biện pháp bảo vệ các giao dịch dân sự, kinh tế; nhằm công khai, minh bạch và làm lành mạnh môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần làm giảm rủi ro trong môi trường kinh doanh với rất nhiều thách thức.
Thể chế, pháp luật có chất lượng, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn và nguyện vọng của Nhân dân là yếu tố hàng đầu quyết định thành công của mỗi quốc gia. Do đó, để đất nước Việt Nam vươn mình phát triển mạnh mẽ cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của toàn dân và nhất định chúng ta sẽ thành công trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đưa đất nước ta vững bước vào kỷ nguyên mới- kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, phát triển. Đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp; xây dựng, phát triển mạng lưới chuyên gia pháp lý nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài để hỗ trợ nghiên cứu, tư vấn các vấn đề mới trong phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, là các yếu tố liên kết chặt chẽ, thúc đẩy nhau để đạt sự phát triển bứt phá, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng cuộc sống.
Quá trình hợp tác, liên kết kinh tế của khu vực và thế giới ngày càng trở nên sôi động, mặc dù sự cạnh tranh cũng rất gay gắt, đòi hỏi các chuyên gia, Trọng tài viên, Luật sư, Luật gia, doanh nhân, doanh nghiệp nghiên cứu, quán triệt sâu sắc các nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị Quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, đồng thời các chủ thể phải có khả năng thích ứng tốt hơn nữa, thì sẽ khai thác được hiệu quả các cơ hội phát triển tại Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế, đó là xu thế tất yếu hiện nay.
-----------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 66-NQ/TW về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”.
2. Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 24/01/2025
Luật gia Lê Đông Triều (Phó Viện trưởng Viện IBLA; Phó Chủ tịch TTTT Thương mại Quốc tế TGAC, Trọng tài viên TRACENT)