Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế: Những ưu việt, sự khác biệt, khuyến nghị đổi mới cho Việt Nam

Trong bối cảnh quan hệ thương mại quốc tế ngày càng mở rộng và phức tạp, nguy cơ phát sinh tranh chấp thương mại luôn tiềm ẩn và có xu hướng gia tăng. Nhằm bảo vệ quyền lợi, duy trì hợp tác, hạn chế rủi ro và đảm bảo công bằng, các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Bài viết sẽ tập trung phân tích các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế hiện nay, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm đổi mới và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam.
1-1752817995.jpg

Ảnh minh họa

1. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế công

Tranh chấp thương mại quốc tế công là những tranh chấp liên quan đến các chính sách thương mại giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế liên chính phủ về vấn đề như thuế quan, trợ cấp, phòng vệ thương mại. Trong đó các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế công thường áp dụng là tham vấn, hòa giải, trọng tài. Ngoài ra còn một số cơ chế giải quyết tranh chấp đặc thù của các tổ chức quốc tế hoặc của khu vực như cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hay cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN... Dưới đấy là các phương thức giải quyết thường được sử dụng trong các tranh chấp thương mại quốc tế công:

(i) Tham vấn:

Tham vấn hay còn được hiểu là thương lượng, là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến nhất, thường được các bên áp dụng trước nhất trong các xung đột về thương mại. Về cơ bản, cách thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế công bằng Tham vấn là việc các bên đưa ra và đối đáp các yêu cầu của bên còn lại để cùng tìm ra phương án giải quyết tranh chấp phát sinh.

Trong các hiệp định thương mại (FTA) truyền thống như Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) năm 2008 (Điều 117) thì Tham vấn thường được xác định là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp độc lập. Tuy nhiên, khi tiếp cận với các FTA thế hệ mới, có thể thấy rằng bên cạnh việc là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập thì Tham vấn được xem như là một giai đoạn trong phương thức giải quyết tranh chấp như Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á Âu (VCUFTA) năm 2015 (theo khoản 1 Điều 14.7 quy định Bên khởi kiện có thể yêu cầu thành lập Hội đồng Trọng tài khi đã yêu cầu tham vấn).

Ví dụ: Năm 2015, liên quan đến việc Indonesia áp đặt các biện pháp tự vệ thương mại lên sản phẩm thép nhập khẩu của Việt Nam. Việt Nam với tư cách là bên xuất khẩu thép bị ảnh hưởng, cho rằng các biện pháp tự vệ này vi phạm các quy định của WTO và đã yêu cầu tổ chức tham vấn với Indonesia trước khi khởi kiện quốc gia này ra Tòa án của WTO.

(ii) Môi giới, Trung gian, Hòa giải:

Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế mang tính tự nguyện, thân thiện, linh hoạt. Bên cạnh cơ chế hòa giải thì còn 2 hình thức khác cũng mang bản chất gần tương tự với Hòa giải đó là Môi giới, Trung gian. Về cơ bản Môi giới, Trung gian, Hòa giải không có nhiều sự khác biệt, bản chất chung của các hình thức này là có sự tham gia của bên thứ ba để kết nối/tham gia giải quyết cùng các bên tranh chấp. Tuy nhiên xét về mức độ tham gia giải quyết tranh chấp thì có sự khác nhau: Môi giới chỉ là việc bên trung gian kết nối các bên tranh chấp tham gia thương lượng, còn Trung gian, Hòa giải sẽ hỗ trợ, tư vấn cho các bên trong việc xử lý, giải quyết các vấn đề đang gặp tranh chấp, bao gồm cả việc đưa ra các giải pháp giải quyết. Bên thứ ba có thể tùy nghi là cá nhân, quốc gia có uy tín như Tổng thư kí Liên hợp quốc, Tổng giám đốc WTO... hoặc được quy định cụ thể theo nguyên tắc được các bên thỏa thuận về hòa giải viên như trong Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) năm 2019.

Việc Môi giới, Trung gian, Hòa giải được thực hiện khi một bên đưa ra yêu cầu tiến hành Môi giới, Trung gian, Hòa giải, quá trình bắt đầu hay kết thúc giải quyết tranh chấp có thể diễn ra ở bất kỳ thời điểm nào theo yêu cầu của một bên. Hơn nữa, phương thức này có thể tiến hành song song với phương thức Trọng tài. Tùy từng Hiệp định mà có những quy định khác nhau về phương thức này: Theo VJEPA (Điều 118) thì Môi giới, Trung gian, Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập bên cạnh Tham vấn và Trọng tài. Nhưng theo VCUFTA (Điều 14.5) thì chỉ xác định hình thức Trung gian, Hòa giải mà không có Môi giới, thêm vào đó, Trung gian, Hòa giải còn là phương thức giải quyết độc lập, không có sự liên kết như Tham vấn và Trọng tài. Hoặc EVFTA (Phụ lục 15-C) chỉ quy định chi tiết về cơ chế Hòa giải mà không có Môi giới hay Trung gian.

(iii) Trọng tài:

Trọng tài là phương thức giải quyết hiệu lực, hiệu quả và là phương thức cuối cùng trong các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế công. Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được thực hiện bởi ba trọng tài viên thông qua việc thành lập hội đồng trọng tài. Hội đồng Trọng tài sẽ tự động giải tán sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Hội đồng Trọng tài có chức năng là đánh giá một cách khách quan của vụ tranh chấp, gồm cả việc đánh giá khách quan các tình tiết của vụ việc và khả năng áp dụng và sự phù hợp với Hiệp định này, đưa ra những kết luận và phán quyết cần thiết cho việc giải quyết các tranh chấp được đề cập cũng như xác định các biện pháp thực thi và/hoặc tạm ngưng ưu đãi phù hợp trong báo cáo cuối cùng khi có yêu cầu của một Bên tranh chấp. Ngoài ra, trong một số trường hợp việc giải quyết bằng phương thức Trọng tài còn kèm theo điều kiện như Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu và các quốc gia thành viên (VN-EAEUFTA) và VCUFTA thì trước khi yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp, các bên phải tiến hành Tham vấn.

Bên cạnh phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài trong các hiệp định FTA song phương thì còn có phương thức giải quyết tranh chấp khác là Ban Hội thẩm trong các hiệp định thương mại và các tổ chức thương mại quốc tế đa phương như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO hay ASEAN. Mô hình Ban hội thẩm có điểm tương đồng với phương thức Trọng tài. Ban hội thẩm là thường gồm 3 thành viên được thành lập theo vụ việc nhằm xét xử cho từng vụ việc cụ thể và tự động giải tán sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Chức năng của Ban hội thẩm là đánh giá khách quan về các vấn đề bao gồm cả việc xem xét các tình tiết và việc áp dụng phù hợp với các hiệp định có liên quan, nhằm đưa ra những kết quả, phán quyết và khuyến nghị theo quy định trong các điều khoản tham chiếu và cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp.

2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tư

Tranh chấp thương mại quốc tế tư là những tranh chấp trong quan hệ thương mại phát sinh giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với quốc gia. Do đó, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tư cũng đa dạng hơn, gồm hai phương thức chính là Tòa án và ngoài Tòa án, cụ thể:

(i) Tòa án:

Tòa án của quốc gia là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tư và đưa ra phán quyết buộc các bên phải thi hành. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án mang nặng tính quyền lực nhà nước. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp phải tuân theo quy định của pháp luật trong nước mà các bên không được tự do thỏa thuận như đối với các phương thức Hòa giải và Trọng Tài. Việc thi hành phán quyết của Tòa án lại có đặc điểm riêng: Đối với những quan hệ tranh chấp thương mại tư trong nước thì sẽ áp dụng quy định thi hành án của quốc gia đã ban hành bản án. Nhưng đối với quan hệ tranh chấp thương mại tư có yếu tố nước ngoài thì việc thi hành án lại được thực hiện bên ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia đã ban hành bản án, do vậy khi thi hành án thì cần phải tuân thủ theo quy định pháp luật của quốc gia khác hoặc theo các điều ước quốc tế. Và bản án muốn được thi hành thì phải được thông qua bằng thủ tục công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài. Chính vì lẽ đó, việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tư bằng Tòa án tồn tại các nhược điểm xuất phát từ những khác biệt, xung đột về hệ thống pháp luật, trình tự thủ tục tố tụng giữa các quốc gia; thủ tục công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều công sức và kinh tế, chưa kể việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thường bị kéo dài do phải trải qua nhiều cấp xét xử gây mất thời gian mà không đem lại hiệu quả trong việc giải quyết mà các bên trong quan hệ tranh chấp mong muốn.

(ii) Ngoài tòa án:

Các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (Alternative Dispute Resolution  - ADR), là một “sự thay thế” cho thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án, với đa dạng phương thức giải quyết tranh chấp thay thế như Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài. Đặc điểm của các phương thức ADR là đề cao tính bảo mật, tự nguyện, chủ động của các bên trong tranh chấp. Do vậy các bên có thể linh hoạt lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp và có thể thỏa thuận trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh tranh chấp. Đồng thời, hình thức thỏa thuận giải quyết tranh chấp cũng vô cùng linh hoạt như thỏa thuận bằng văn bản, thư điện tử, fax... hoặc bằng điều khoản cụ thể trong hợp đồng. Vì vậy, việc lựa chọn phương thức ADR nào để giải quyết tranh chấp là tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Trong đó phương thức Thương lượng thường được các bên ưu tiên lựa chọn làm phương thức giải quyết tranh chấp trước tiên, tuy nhiên phương thức này lại thường tỏ ra kém hiệu quả hơn các phương thức còn lại.

2-1752818003.jpg

Ảnh minh họa

Giải quyết tranh chấp bằng ADR không “bó hẹp” các bên trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Hòa giải hoặc Trọng tài là phải theo thỏa thuận trong các Hiệp định hoặc Điều ước quốc tế. Mà các bên hoàn toàn có thể lựa chọn các tổ chức Hòa giải, Trọng tài tư. Về cơ bản, cách thức giải quyết tranh chấp bằng Hòa giải, Trọng tài tại các tổ chức tư cũng giống như cách thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế công. Tuy nhiên, quy định về trình tự, thủ tục giải quyết giữa các phương thức này lại có sự khác biệt: Đối với phương thức Hòa giải, Trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế công sẽ được thực hiện theo trình tự thủ tục được quy định trong các Hiệp định, Thỏa thuận quốc tế. Ngược lại, việc giải quyết tranh chấp bằng Hòa giải, Trọng tài theo ADR sẽ được thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng riêng của tổ chức đó. Ngoài ra, phương thức Hòa giải, Trọng tài trong ADR vẫn phải tuân thủ các quy định pháp luật về Hòa giải hoặc Trọng tài của quốc gia. Ví dụ như việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) được thực hiện theo Quy tắc Trọng tài VIAC nhưng vẫn phải tuân thủ các quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Các phương thức ADR tạo ra sự đa dạng cho việc giải quyết tranh chấp. Các bên có thể sử dụng lần lượt các phương thức từ Thương lượng đến Hòa giải và Trọng tài hoặc có thể kết hợp nhiều phương thức hoặc cũng có thể chỉ lựa chọn một phương thức giải quyết nhất định.

Bên cạnh đó, tranh chấp thương mại quốc tế tư còn là tranh chấp giữa chủ thể là quốc gia với thương nhân. Quan hệ tranh chấp này có tính đặc thù bởi quốc gia là chủ thể có quyền miễn trừ tư pháp theo luật quốc tế. Do vậy nếu không có sự từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp quốc gia thì không xác định quốc gia là một bên trong quan hệ tranh chấp. Đối với tranh chấp giữa Chính phủ với các nhà đầu tư nước ngoài thông thường được giải quyết tại trọng tài hoặc tòa án trong nước của nước tiếp nhận đầu tư. Trong trường hợp này, Chính phủ của quốc gia có nhà đầu tư có thể sử dụng phương thức bảo hộ ngoại giao để thay mặt nhà đầu tư nước ngoài tiến hành khiếu kiện Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư. Khi đó tranh chấp sẽ chuyển từ tranh chấp thương mại quốc tế tư sang tranh chấp thương mại quốc tế công.

3. Khuyến nghị đổi mới cho Việt Nam

3.1. Đối với phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế công

Việt Nam vẫn là quốc gia còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm trong giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế công, do số lượng vụ việc tham gia còn hạn chế. Theo thống kê của WTO, số lượng vụ tranh chấp mà Việt Nam tham gia với tư cách nguyên đơn/bị đơn là 05 vụ và với tư cách bên thứ ba là 42 vụ. Do đó để tránh việc bị động trong các vụ tranh chấp, đồng thời nhằm bảo đảm quyền lợi của quốc gia cũng như hạn chế làm ảnh hưởng đến uy tín, vị thế của đất nước trên trường quốc tế thì Việt Nam cần:

Thứ nhất, phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, khuyến khích thu hút các chuyên gia, luật sư, luật gia giỏi, có nhiều kinh nghiệm tham gia tư vấn, giải quyết tranh chấp. Hình thành cơ quan phụ trách giải quyết tranh chấp quốc tế độc lập, bởi hiện nay việc tham gia giải quyết tranh chấp thường được tổ hợp từ cán bộ, chuyên viên trực thuộc nhiều Bộ, ngành khác nhau để giải quyết theo từng vụ việc cụ thể. Trong khi các tranh chấp thương mại quốc tế công rất đặc thù, mang tính chuyên môn và kỹ năng xử lý cao, vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của quốc gia và có nhiều ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia – dân tộc, vì vậy đòi hỏi yêu cầu khắt khe, cẩn trọng, tỉnh táo đối với chất lượng nhân lực.

3-1752818004.jpg

Ảnh minh họa

Thứ hai, chủ động thúc đẩy hợp tác quốc tế, đồng thời tích cực tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại toàn cầu, qua đó bảo đảm lợi ích quốc gia và củng cố vị thế trên trường quốc tế. Tích cực đàm phán, đề xuất cải cách và minh bạch hóa, cụ thể hóa hệ thống giải quyết tranh chấp trong các FTA mà Việt Nam là thành viên, nhằm tăng tính công bằng và hiệu quả.

Chủ động theo dõi, thiết lập hệ thống phòng ngừa và cảnh báo sớm các nguy cơ tranh chấp thương mại dựa trên dữ liệu xuất nhập khẩu, rào cản kỹ thuật và phản ứng của thị trường cũng như biến động của quốc tế. Tăng cường vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và các tổ chức quốc tế trong việc cập nhật thông tin, theo dõi các vụ việc và tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế.

Thứ ba, có phản ứng nhạy bén, kịp thời với các tranh chấp phát sinh; tham gia chủ động và tích cực ngay từ giai đoạn đầu của tranh chấp để có đủ thời gian đánh giá, chuẩn bị và thu thập bổ sung dữ liệu, bằng chứng để bảo đảm tối đa quyền lợi. Nghiên cứu, đánh giá các tác động từ tranh chấp, đồng thời xây dựng kĩ lưỡng kế hoạch, kịch bản ứng phó để việc giải quyết tranh chấp đạt kết quả tốt nhất.

Thứ tư, tăng cường bảo hộ nhà đầu tư trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hiểu biết và tuân thủ luật thương mại quốc tế. Tổ chức tập huấn thường xuyên cho doanh nghiệp về các quy định, nguyên tắc, và quy trình xử lý tranh chấp thương mại quốc tế. Tạo diễn đàn kết nối cộng đồng doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để chia sẻ kinh nghiệm, thông tin, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong các vụ việc cụ thể, nhất là các vụ kiện phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp…

3.2. Đối với phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tư

* Đối với Tòa án: Tòa án quốc gia vẫn là một phương thức phổ biến để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế tư. Để nâng cao hiệu quả của phương thức này, Việt Nam cần có những cải cách và định hướng phù hợp như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia theo hướng tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế nhằm tăng cường sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác nhằm đảm bảo tính thực thi của phán quyết. Đồng thời, cần khuyến khích việc công nhận và cho thi hành phán quyết của tòa án nước ngoài tại Việt Nam cũng như của tòa án Việt Nam tại nước ngoài, thông qua việc thúc đẩy đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp liên quan đến thủ tục này, cùng với đó cần cải thiện quy trình, thủ tục trong nước nhằm nâng cao hiệu quả thực thi.

* Đối với ADR: Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Ban chấp hành trung ương đã đưa ra định hướng “khuyến khích, phát triển các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như trọng tài thương mại, hòa giải thương mại...”. Điều này cho thấy Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm và thúc đẩy việc áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp phi truyền thống, bên cạnh cơ chế giải quyết thông qua tòa án.

(i) Hòa giải:

Thứ nhất, tại Việt Nam, phương thức hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại vẫn còn ít được lựa chọn, với số lượng vụ việc mỗi năm được thụ lý chỉ ở mức rất thấp như tại Trung tâm Hòa giải Việt Nam - VMC trong năm 2024 chỉ tiếp nhận tổng cộng 03 vụ việc hòa giải, còn giai đoạn 2018 – 2024 VMC chỉ tiếp nhận tổng cộng 42 vụ, trong đó có 40,48% là tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Nguyên nhân chính là do phương thức giải quyết tranh chấp này được xem là tương đối mới ở Việt Nam. cần đẩy mạnh công tác truyền thông và nâng cao mức độ nhận diện về hòa giải thương mại, đặc biệt trong cộng đồng doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, phương thức này đang dần khẳng định được vai trò và hiệu quả trong giải quyết tranh chấp. Theo VMC, có tới 91% các vụ việc có sự tham gia của hòa giải viên đã đạt được thỏa thuận hòa giải thành công.

Thứ hai, hiện nay, hòa giải thương mại chưa được điều chỉnh bởi một đạo luật riêng mà mới chỉ dừng lại ở Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại, dẫn đến khung pháp lý còn thiếu tính toàn diện và thống nhất. Do đó, cần thiết phải xây dựng và ban hành một đạo luật riêng về hòa giải nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng phương thức này một cách hiệu quả và rộng rãi trong thực tiễn.

Thứ ba, mặc dù hòa giải có những ưu điểm nổi bật như chi phí thấp, thủ tục linh hoạt, bảo mật thông tin và giữ gìn mối quan hệ giữa các bên, nhưng nhược điểm lớn nhất là không có cơ chế bắt buộc thi hành ngay mà phải thông qua thêm thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án. Vì vậy có thể xem xét xây dựng cơ chế công nhận kết quả hòa giải thành và cho phép yêu cầu thi hành án đối với các vụ việc được hòa giải thành thông qua các tổ chức hòa giải được cấp phép, giống như đối với các phán quyết của Trọng tài.

4-1752818003.png

(ii) Trọng tài: Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam được điều chỉnh bởi Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Sau gần 15 năm áp dụng, luật đã góp phần quan trọng trong việc phát triển cơ chế trọng tài thương mại tại Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật về trọng tài vẫn còn một số bất cập và cần tiếp tục được hoàn thiện ở một số khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, về thủ tục hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp: Hiện nay, pháp luật không giới hạn số lần hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp. Việc có cho phép hoãn hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của Hội đồng Trọng tài. Trong thực tiễn, một số bên đã lợi dụng khoảng trống này để cố tình kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp, gây ảnh hưởng đến hiệu quả và tính kịp thời của quá trình tố tụng. Do đó, cần bổ sung quy định giới hạn số lần hoãn phiên họp nhằm đảm bảo tính minh bạch, ngăn chặn hành vi trì hoãn không chính đáng, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên còn lại trong tranh chấp.

Thứ hai, việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn kiện lại trong tố tụng trọng tài được quy định khá rộng, cho phép các bên thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng trọng tài. Quy định này tuy nhằm bảo đảm quyền lợi của đương sự, nhưng trong thực tiễn, không ít trường hợp bị lợi dụng để liên tục đưa ra yêu cầu mới, sửa đổi yêu cầu khởi kiện cũ. Điều này không chỉ kéo dài thời gian giải quyết, ảnh hưởng đến việc tranh tụng mà còn gây khó khăn cho Hội đồng Trọng tài trong việc xử lý vụ việc một cách hiệu quả và dứt điểm. Bởi theo quy định, để giải quyết triệt để vụ tranh chấp, Hội đồng Trọng tài buộc phải xem xét và giải quyết đầy đủ các yêu cầu của các bên. Hệ quả là quá trình giải quyết bị kéo dài, làm phát sinh nhiều hệ lụy không mong muốn, ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả của cơ chế trọng tài.

Thứ ba, phán quyết trọng tài bị hủy do “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” (điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010) còn nhiều bất cập. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn nào giải thích thỏa đáng về quy định “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Với quốc gia có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồ sộ như ở Việt Nam thì phạm vi áp dụng căn cứ hủy phán quyết này là quá rộng. Do đó dẫn đến tình trạng quy định này dễ bị lạm dụng một cách tùy tiện, làm giảm vai trò, chức năng và uy tín của phương thức giải quyết Trọng tài. Vì vậy, cần đưa ra những hướng dẫn, giải thích thống nhất, rõ ràng về thuật ngữ “nguyên tắc cơ bản của pháp luật”, có thể dựa trên các tiêu chí như về chính trị, đạo đức, công lý, lợi ích quốc gia, công cộng nhằm vừa đảm bảo được giá trị của phán quyết trọng tài, vừa tuân thủ nguyên tắc của pháp luật.

Thứ tư, cơ chế thi hành phán quyết trọng tài còn bị hạn chế. Cơ quan có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết. Quy định này thể hiện sự hạn chế trong trường hợp người hoặc tài sản phải thi hành án không nằm trong phạm vi của cơ quan có thẩm quyền thi hành án, khi đó buộc phải thực hiện thủ tục ủy thác thi hành án dẫn đến tốn kém thời gian và chi phí. Do đó, cần sửa đổi theo hướng mở rộng thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài, tương tự như đối với bản án của Tòa án – trao quyền cho cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành cư trú, đặt trụ sở hoặc nơi có tài sản.

Ngoài ra, phán quyết trọng tài có hiệu lực kể từ ngày ban hành và có quy định thời hạn thi hành phán quyết. Chỉ khi thời hạn thi hành phán quyết kết thúc mà bên bị thi hành không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì bên được thi hành mới có quyền làm yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành phán quyết đó. Tuy nhiên, theo thủ tục thi hành án thì sau khi thụ lý đơn và có quyết định thi hành án thì người phải thi hành án có 15 ngày để tự nguyện thi hành án, hết thời hạn này mà không tự nguyện thi hành án thì mới bị cưỡng chế. Như vậy, quy định pháp luật đang có xung đột khi tạo ra 02 khoảng thời hạn tự nguyện thi hành án khác nhau, dẫn đến việc thi hành án bị kéo dài một cách bất hợp lý. Do đó cần sửa đổi theo hướng: nếu bên phải thi hành không thực hiện đúng thời hạn trong phán quyết thì bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế ngay, bỏ qua giai đoạn tự nguyện thi hành án theo luật thi hành án.

Thứ năm, pháp luật trọng tài thương mại hiện có quy định về việc cho phép gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp để giải quyết trong cùng một vụ kiện (khoản 4 Điều 7 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP), nhưng lại không có cơ chế tách các quan hệ pháp luật tranh chấp đã thụ lý để giải quyết riêng. Thực tiễn cho thấy có trường hợp Công ty A khởi kiện Công ty B yêu cầu thanh toán tiền hàng trong Hợp đồng X, Công ty B kiện lại Công ty A để đối trừ công nợ liên quan đến Hợp đồng X và Hợp đồng Y. Trong khi Hợp đồng X và Hợp đồng Y là 2 hợp đồng độc lập, không có sự liên đới ràng buộc, mỗi hợp đồng đều có điều khoản riêng về thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại Trọng tài, giữa các bên không thống nhất công nợ với nhau. Có thể thấy rằng, quá trình tố tụng được bắt đầu từ yêu cầu khởi kiện của Công ty A về một quan hệ tranh chấp trong Hợp đồng X, sau đó Công ty B kiện lại bổ sung thêm quan hệ tranh chấp khác mà các quan hệ tranh chấp này là tách biệt, có thỏa thuận trọng tài độc lập, và các bên cũng không thống nhất việc gộp tranh chấp. Nhưng hiện nay pháp luật về trọng tài lại chưa có cơ chế tách các quan hệ tranh chấp sau khi đã thụ lý. Vì vậy, để tránh gây khó khăn cho hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết, cũng như để tranh chấp được giải quyết một cách khách quan, triệt để, nhanh chóng thì cần bổ sung thêm quy định tách quan hệ tranh chấp tại Trọng tài khi các yêu cầu có tính chất độc lập hoặc cần được xem xét riêng biệt.

Thứ sáu, việc tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp bằng hình thức trực tuyến còn nhiều bất cập. Mặc dù hình thức giải quyết tranh chấp trực tuyến có những ưu điểm như tiết kiệm thời gian, chi phí và tạo điều kiện thuận lợi cho các bên ở nhiều địa điểm khác nhau tham gia, nhưng thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập như: Khó kiểm soát người tham gia; nguy cơ bị ghi âm, ghi hình trái phép; rò rỉ thông tin, nội dung và diễn biến vụ tranh chấp; cũng như nguy cơ lộ bí mật kinh doanh. Bên cạnh đó, hạn chế về cơ sở vật chất và đường truyền kết nối cũng ảnh hưởng đến tính bảo mật và hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp. Trong khi đó pháp luật trọng tài vẫn chưa quy định cụ thể về các hình thức tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp, mà các hình thức này được thực hiện trên cơ sở là quy tắc riêng của các trung tâm trọng tài. Vì vậy cần bổ sung quy định về hình thức tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp bằng hình thức trực tuyến, trong đó yêu cầu cụ thể các tiêu chí như về cơ sở vật chất, hệ thống an ninh bảo mật, thành phần tham gia, quy trình tố tụng, quy trình xử lý kỹ thuật...

4. Kết luận

Việc lựa chọn và áp dụng phù hợp phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên và bảo đảm môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh. Việc Việt Nam tiếp cận và áp dụng linh hoạt các phương thức này là cần thiết trong bối cảnh thương mại quốc tế có nhiều biến động. Tuy nhiên, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và tham khảo kinh nghiệm từ quốc tế để có thể tạo dựng môi trường giải quyết tranh chấp minh bạch, hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. 

--------------------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Ban chấp hành trung ương.

2. Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

3. Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại.

4. Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành Luật Trọng tài thương mại.

5. Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) năm 2008.

6. Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á Âu (VCUFTA) năm 2015.

7. Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) năm 2019.

8. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu và các quốc gia thành viên (VN-EAEUFTA) năm 2015.

9. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

10. Báo cáo thường niên 2024 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).

11. https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/dispu_by_country_e.htm

12. Nguyễn Bá Bình (chủ biên) (2021), Giáo trình Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

Vũ Hà – Trần Hơn

Theo Phaply.net.vn