Kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm liêm chính trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật và khuyến nghị cho Việt Nam

Bảo đảm liêm chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, "lợi ích nhóm" trong xây dựng chính sách, pháp luật được thể hiện trong nhiều chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; đặc biệt là Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và trước đó là Quy định 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Bài viết này trình bày kinh nghiệm quốc tế về một số cơ chế nhằm bảo đảm liêm chính trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật, như: bộ quy tắc ứng xử, đạo đức; các cơ quan chuyên trách về đạo đức, liêm chính công vụ; đánh giá rủi ro tham nhũng trong các dự thảo luật; sự tham gia của đội ngũ luật gia, luật sư, chuyên gia pháp luật vào xây dựng chính sách, pháp luật; từ đó, đưa ra một số khuyến nghị có giá trị tham khảo cho Việt Nam nhằm bảo đảm liêm chính trong công tác này.

4-1758168623.jpgẢnh minh hoạ

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, liêm chính là ngay thẳng và trong sạch. Trong bài “Cần, kiệm, liêm chính” viết tháng 6 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Liêm là trong sạch, không tham lam”, “Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn”. Theo học giả Michael Jensen và Werner Erhard, liêm chính là thuộc tính của môi trường ứng xử được tạo nên bởi các yếu tố, bao gồm: Chuẩn mực đạo đức, đạo lý và các quy phạm pháp luật. Môi trường này mang tính tổng thể, toàn vẹn, hoàn hảo, không thể bị phá vỡ và giúp tạo ra những giá trị mới hoặc lợi ích cho các chủ thể có liên quan.

Xuất phát từ khái niệm chung về liêm chính, liêm chính trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật có thể hiểu là việc tuân thủ các nguyên tắc đạo đức và chuẩn mực, bao gồm tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, sự trung thực và tôn trọng nguyên tắc pháp quyền, nhằm định hướng hành động, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật. Để thúc đẩy, bảo đảm liêm chính trong công tác xây dựng chính sách pháp luật cần tăng cường tính minh bạch; xây dựng khung pháp lý chặt chẽ về bảo đảm liêm chính, phòng, chống tham nhũng; chú trọng phát triển bộ quy tắc ứng xử, đạo đức và có hướng dẫn chi tiết, rõ ràng cho đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng văn hóa liêm chính, đào tạo và nâng cao nhận thức về đạo đức, liêm chính công vụ cho các cán bộ, công chức; khuyến khích sự tham gia của nhân dân, tổ chức xã hội vào hoạt động giám sát công tác này; ứng dụng công nghệ, số hóa các quy trình xây dựng chính sách, pháp luật, giảm thiểu tiếp xúc trực tiếp, ngăn ngừa xung đột lợi ích và hạn chế cơ hội tham nhũng, tiêu cực;…

1. Bộ quy tắc ứng xử, đạo đức nhằm bảo đảm liêm chính trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật

Theo nghĩa chung nhất, bộ quy tắc ứng xử, đạo đức là một hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực hành vi được quy định nhằm hướng dẫn cách cư xử, giao tiếp và làm việc của cá nhân hoặc tổ chức trong một môi trường cụ thể. Bộ quy tắc này giúp bảo đảm sự liêm chính, trách nhiệm, minh bạch và tôn trọng lẫn nhau, đồng thời ngăn ngừa các hành vi sai trái, vi phạm đạo đức hoặc pháp luật.

Bộ Quy tắc ứng xử dành cho các thành viên của Nghị viện châu Âu về liêm chính và minh bạch (tại Phụ lục I của Quy tắc Thủ tục của Nghị viện) quy định các thành viên của Nghị viện phải được hướng dẫn và tuân thủ các nguyên tắc ứng xử chung về tính vô tư, liêm chính, cởi mở, tận tâm, trung thực, trách nhiệm giải trình, tôn trọng danh dự và uy tín của Nghị viện, chỉ hành động vì lợi ích công và không được nhận hoặc tìm cách nhận bất kỳ lợi ích trực tiếp hay gián tiếp nào hoặc các khoản thưởng khác. Theo Điều 2 của Bộ Quy tắc, các thành viên của Nghị viện không được yêu cầu, chấp nhận hoặc nhận bất kỳ lợi ích trực tiếp hay gián tiếp nào để đổi lấy một hành vi cụ thể trong phạm vi công việc; phải chủ động tránh mọi tình huống có thể hàm ý là hối lộ, tham nhũng hoặc ảnh hưởng không đáng có; không được tham gia vào các hoạt động vận động hành lang có trả phí có liên quan trực tiếp đến quy trình ra quyết định.Bộ Quy tắc ứng xử quy định các thành viên của Nghị viện châu Âu có nghĩa vụ thực hiện mọi nỗ lực hợp lý để phát hiện các xung đột lợi ích, và khi nhận thức được bất kỳ xung đột nào, phải ngay lập tức nỗ lực giải quyết; nếu không thể tự giải quyết, họ cần phải khai báo trong Bản khai báo lợi ích cá nhân.

Bộ Quy tắc ứng xử của Hạ viện Hà Lan đặt ra mục đích tăng khả năng tiếp cận các quy định về liêm chính, nâng cao sự hiểu biết về nội dung của chúng và thúc đẩy việc áp dụng các quy tắc liêm chính. Mục đích này đưa đến các yêu cầu sau: (1) Thành viên Hạ viện phải luôn hành động độc lập và vì lợi ích công; không được phép chấp nhận bất kỳ món quà hoặc ân huệ nào nhằm mục đích ảnh hưởng đến hành động và quyết định của họ; phải kiềm chế mọi hành động hoặc quyết định có thể gây thiệt hại đáng kể đến uy quyền, danh dự hoặc uy tín của Hạ viện. (2) Trong các mối quan hệ với những người vận động hành lang, thành viên Hạ viện phải luôn nhận thức được vị trí độc lập của mình và các nghĩa vụ mà Hiến pháp quy định cho họ; phải luôn duy trì một khoảng cách nhất định trong bất kỳ giao dịch nào với những người vận động hành lang. (3) Thành viên Hạ viện phải khai báo các hoạt động bên ngoài và thu nhập phụ, các chuyến đi nước ngoài mà chi phí đi lại và chỗ ở được thanh toán toàn bộ hoặc một phần bởi bên thứ ba. (4)Tính bảo mật của việc trao đổi ý kiến trong cuộc họp ủy ban kín hoặc phiên họp toàn thể kín phải được duy trì bởi những người có mặt tại các phiên họp đó và bởi tất cả những người có hiểu biết về các vấn đề được xử lý hoặc các tài liệu liên quan, cho đến khi ủy ban hoặc Hạ viện dỡ bỏ nghĩa vụ bảo mật.

2. Các cơ quan chuyên trách về đạo đức, liêm chính công vụ trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật

Mô hình tổ chức các cơ quan chuyên trách về đạo đức, liêm chính công vụ là đa đạng, phong phú tại các quốc gia. Tuy vậy, các cơ quan này đều có trách nhiệm kiểm soát các quy định, quy tắc ứng xử, đạo đức, các xung đột lợi ích; tiếp nhận các khiếu nại về vi phạm tiêu chuẩn ứng xử, đạo đức của công chức; thu thập và đánh giá các báo cáo về tài sản, thu nhập; xây dựng, bổ sung, phát triển bộ quy tắc ứng xử, đạo đức; cung cấp các khóa đào tạo, chương trình giáo dục và cung cấp các nguồn hỗ trợ, tư vấn cho các công chức, bao gồm các đại biểu dân cử, công chức thực hiện công tác xây dựng chính sách, pháp luật.

Tại Hạ viện Hoa Kỳ, hai cơ quan là Ủy ban Đạo đức và Văn phòng Ứng xử chịu trách nhiệm về các cáo buộc vi phạm đạo đức liên quan đến các thành viên và nhân viên của Hạ viện. Ủy ban Đạo đức Hạ viện là một ủy ban thường trực của Hạ viện, có thẩm quyền giải thích, quản lý và thực thi Bộ Quy tắc Ứng xử chính thức của Hạ viện. Văn phòng Ứng xử Hạ viện (OCC) được thành lập năm 2008 và là một thiết chế độc lập. OCC được điều hành bởi một Hội đồng OCC gồm 08 thành viên, họ không phải các thành viên đương nhiệm của Hạ viện, không được vận động hành lang hoặc làm việc cho chính phủ liên bang. Nhân sự chủ yếu của OCC là luật sư và chuyên gia về luật đạo đức và điều tra.

Văn phòng Ứng xử Hạ viện Hoa Kỳ có thẩm quyền điều tra các vi phạm luật pháp, quy tắc chuẩn mực đạo đức, ứng xử của thành viên hoặc nhân viên Hạ viện và nếu tìm thấy “lý do đáng kể để tin vào các cáo buộc” thì sẽ chuyển vụ việc cho Ủy ban Đạo đức Hạ viện. Quy trình điều tra của OCC bao gồm các bước cơ bản sau: tiếp nhận thông tin vi phạm (từ công chúng hoặc nội bộ); Hội đồng OCC ủy quyền rà soát sơ bộ (30 ngày); Hội đồng OCC bỏ phiếu: chuyển sang giai đoạn hai hoặc bác bỏ; giai đoạn hai với mục tiêu là điều tra sâu để thu thập bằng chứng (45 ngày + 14 ngày gia hạn nếu cần); Hội đồng OCC bỏ phiếu: khuyến nghị Ủy ban Đạo đức điều tra hoặc bác bỏ; Ủy ban Đạo đức ra quyết định cuối cùng (điều tra thêm, áp dụng chế tài hoặc bác bỏ). Đây là một cơ chế minh bạch và chặt chẽ, thể hiện nỗ lực của Hạ viện Hoa Kỳ trong việc duy trì tính liêm chính và trách nhiệm giải trình của các thành viên và nhân viên của Hạ viện.

3. Đánh giá rủi ro tham nhũng trong các dự thảo luật và văn bản pháp luật hiện hành nhằm bảo đảm tính liêm chính

Tại Hàn Quốc, hiện nay Ủy ban Chống tham nhũng và Quyền công dân (ACRC) là cơ quan có thẩm quyền thực hiện đánh giá rủi ro tham nhũng trong các dự thảo luật hoặc trong các luật hiện hành và trong một số trường hợp, các cơ quan, tổ chức công có thể tự đánh giá rủi ro tham nhũng đối với các quy định của địa phương và các quy tắc có tính nội bộ. Đối với dự thảo luật, việc đánh giá rủi ro tham nhũng được thực hiện như sau: (1) Cơ quan soạn thảo luật gửi yêu cầu đánh giá rủi ro tham nhũng đến ACRC. (2) ACRC phân tích và đánh giá dự thảo luật để xem xét các yếu tố tiềm ẩn rủi ro tham nhũng. (3) Dựa trên kết quả phân tích, ACRC xác định các rủi ro tham nhũng và đưa ra các khuyến nghị để giảm thiểu hoặc loại bỏ các rủi ro này. (4) ACRC tham vấn với cơ quan soạn thảo luật về các rủi ro tham nhũng và các khuyến nghị. (5) ACRC thông báo kết quả đánh giá và các khuyến nghị cho cơ quan soạn thảo. (6) Cơ quan soạn thảo xem xét các khuyến nghị của ACRC và tích hợp vào dự thảo luật. (7) ACRC giám sát việc thực hiện các khuyến nghị.

Đối với các luật hiện hành, việc đánh giá rủi ro tham nhũng được thực hiện như sau: (1) ACRC lựa chọn văn bản pháp luật cần đánh giá rủi ro tham nhũng. (2) ACRC tiến hành đánh giá, có thể gồm việc thu thập ý kiến từ các cơ quan, tổ chức liên quan và tổ chức các phiên điều trần hoặc tham vấn công khai nếu cần thiết. (3) ACRC thông báo các khuyến nghị về việc sửa đổi luật để giảm thiểu rủi ro tham nhũng. (4) Cơ quan, tổ chức liên quan hợp tác với ACRC trong quá trình đánh giá và cung cấp các tài liệu cần thiết. (5) ACRC theo dõi và thông báo về việc các khuyến nghị đã được thực hiện trong quá trình sửa đổi luật.

Hiện nay, để đánh giá rủi ro nêu trên, ACRC và các cơ quan, tổ chức liên quan dựa trên 12 tiêu chí sau:Tính hợp lý của chi phí tuân thủ; Sự phù hợp của các quy định chế tài; Rủi ro trong bảo đảm ưu đãi; Tính cụ thể và khách quan của quyền tự quyết; Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc ủy thác/ ủy quyền; Rủi ro phân bổ sai lệch hoặc lạm dụng sự hỗ trợ của Chính phủ; Khả năng tiếp cận của các bên liên quan và các chuyên gia trong quy trình hành chính; Tính công khai; Rủi ro xung đột lợi ích; Sự cần thiết của việc tăng cường cơ chế phòng, chống tham nhũng; Sự rõ ràng trong cung cấp dịch vụ công và thủ tục hành chính; Rủi ro của việc thực hiện hành chính thụ động.

4. Sự tham gia của đội ngũ luật gia, luật sư, chuyên gia pháp luật vào công tác xây dựng chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm liêm chính

Sự hỗ trợ rộng rãi từ các luật gia, luật sư và các chuyên gia pháp luật là một trong những biện pháp cần thiết không chỉ trong việc soạn thảo chính sách, pháp luật mà còn cung cấp những ý kiến, phản hồi ít nhiều khách quan về các chính sách, pháp luật; đồng thời, họ cũng góp phần tăng cường sự liêm chính trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật và ngăn ngừa việc đưa vào các điều khoản tạo điều kiện cho tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Thực tế, có sự khác biệt lớn giữa các cơ quan lập pháp trong Liên minh châu Âu về quy mô sử dụng sự hỗ trợ pháp lý từ các luật gia, luật sư và chuyên gia pháp lý. Ví dụ, bộ phận pháp lý của Quốc hội Liên bang Đức sử dụng khoảng 1000 luật gia, cố vấn pháp lý so với khoảng 15 người trong Hạ viện Cộng hòa Séc.

Tham vấn là một thành phần quan trọng của một quy trình lập pháp. Ở những nơi quy trình lập pháp được thể chế hóa và chuyên nghiệp hóa tốt, việc tham vấn tạo cho các cá nhân và tổ chức xã hội cơ hội bình đẳng để đóng góp ý kiến cho một dự thảo luật, có khả năng nâng cao chất lượng, tăng tính liêm chính, giảm khả năng tham nhũng trong quy trình lập pháp. Ngân hàng Thế giới gợi ý rằng "những quốc gia mà các doanh nghiệp có thể thể hiện tiếng nói thông qua các hiệp hội hợp pháp thì ít có khả năng gặp phải các vấn đề về sự thao túng và tham nhũng". Tham vấn có thể được thực hiện theo hai hình thức: (1) Tham vấn có mục tiêu mời các nhóm được lựa chọn để nhận xét về một dự thảo luật; những người tham gia nên được chọn là những người có chuyên môn về chủ đề của luật hoặc đại diện cho lợi ích của những đối tượng chịu ảnh hưởng bởi nó. (2) Tham vấn mở có nghĩa là mở rộng việc tham vấn cho công chúng nói chung. Đối với các nhà lập pháp, tham vấn có mục tiêu thường có vẻ là lựa chọn hấp dẫn hơn, vì nó có xu hướng thu được các phản hồi am hiểu và ít tốn kém cũng như nặng nề về mặt hành chính. Tuy nhiên, có một rủi ro là không phải tất cả các lợi ích liên quan đều được tham vấn. Do đó, nếu chọn tham vấn có mục tiêu thì điều rất quan trọng là nhà nước phải cố gắng thu hút đại diện của càng nhiều nhóm chịu ảnh hưởng bởi dự thảo luật càng tốt. Tham vấn mở có khả năng thu về một số lượng lớn các phản hồi nhưng lại thiếu đồng nhất và ít am hiểu hơn. Tuy nhiên, mức độ dễ dàng trong việc tổ chức tham vấn mở đã thay đổi đáng kể, đặc biệt là do sự mở rộng của mạng Internet.

3-1758168631.png

Nghị quyết 66-NQ/TW được xem là "đột phá của đột phá" trong xây dựng pháp luật, mở đường lớn để thúc đẩy sáng tạo giá trị tối đa (ảnh minh họa)

5. Một số khuyến nghị cho Việt Nam

Một là, Việt Nam có khá nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định về ứng xử, đạo đức, phòng ngừa xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ, như Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Công chức, Luật Viên chức, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân. Để thúc đẩy, giữ gìn tính liêm chính và sự minh bạch của nền công vụ, chúng ta cần tiếp tục chú trọng việc xây dựng, hoàn thiện các quy tắc ứng xử, đạo đức đặc thù, phù hợp cho từng lĩnh vực, ngành, nghề; trong đó có công tác xây dựng chính sách, pháp luật. Một bộ quy tắc ứng xử, đạo đức cần bảo đảm các tiêu chí: rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu đối với tất cả các thành viên; đưa ra các hướng dẫn chi tiết và ví dụ cụ thể để phòng ngừa, xử lý các trường hợp xung đột lợi ích; bảo đảm cấu trúc của bộ quy tắc được thiết kế một cách logic xoay quanh một số giá trị cốt lõi; sử dụng các khái niệm một cách nhất quán; có tính liên kết, tham chiếu chéo đến các tài liệu và hướng dẫn khác;...

Hai là, nhiều quốc gia đã thành lập các cơ quan chuyên trách để quản lý, giám sát việc thi hành các bộ quy tắc ứng xử, đạo đức, cũng như xây dựng, ban hành các quy định, quy tắc nhằm hướng dẫn hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đào tạo, tập huấn cho cán bộ, công chức về các quy tắc ứng xử, đạo đức, xung đột lợi ích. Chúng ta có thể nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện các thiết chế bảo đảm đạo đức, liêm chính công vụ theo các hướng mỗi lĩnh vực có thể xây dựng một cơ quan về đạo đức công vụ, ví dụ, Quốc hội có thể giao cho một trong các ủy ban chuyên trách hiện nay thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực thi các quy tắc ứng xử, đạo đức trong công tác xây dựng pháp luật (bảo đảm chủ trương tinh gọn bộ máy) hoặc về lâu dài, có thể thành lập một ủy ban đạo đức để thực hiện nhiệm vụ này.

Ba là, để đánh giá rủi ro tham nhũng trong các dự thảo luật hoặc trong các luật hiện hành, Hàn Quốc xây dựng 12 tiêu chí đánh giá. Đây là những tiêu chí mà Việt Nam có thể tham khảo, vận dụng trong quá trình đánh giá rủi ro tham nhũng trong các dự thảo luật và trong các văn bản pháp luật hiện hành; nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang tăng cường công tác xây dựng và thi hành pháp luật; phù hợp với nhiệm vụ, giải pháp của Đảng về thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm" trong xây dựng và thi hành pháp luật được đề ra trong Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đồng thời, tiếp tục rà soát, đề xuất giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật; bám sát thực tiễn, tập trung giải quyết những vấn đề đang cản trở phát triển, tháo gỡ các “điểm nghẽn” do quy định pháp luật; quán triệt, thực hiện nghiêm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 66-NQ/TW: “Xác định xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, thường xuyên của các Bộ, ngành Trung ương”.

Bốn là, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đưa ra một trong các giải pháp về xây dựng pháp luật là “Có cơ chế thu hút các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật” và định hướng “Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công” trong Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị. Do vậy, thời gian tới, Hội Luật gia Việt Nam cần tiếp tục chủ động, tích cực tham gia hiệu quả hơn nữa trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật, hoàn thiện thể chế, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,… Đồng thời, cần chủ động rà soát kiến nghị, khắc phục những sơ hở, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật hiện hành, cùng bộ, ban, ngành tháo gỡ “điểm nghẽn” về thể chế, đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng pháp luật. Hội Luật gia Việt Nam là đầu mối quan trọng trong việc giới thiệu, huy động sự tham gia rộng rãi, thực chất của các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, các luật gia, luật sư giỏi, tâm huyết, có uy tín tham gia vào các ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật và các chương trình, đề án của Chính phủ và các bộ, ban, ngành nhằm góp phần nâng cao chất lượng của các chính sách, văn bản pháp luật và bảo đảm tính liêm chính, phòng ngừa tham nhũng, “lợi ích nhóm” trong quy trình xây dựng chính sách, pháp luật.

------------------------

Tài liệu tham khảo

- Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

- Quy định 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 6.

- Đỗ Thị Ngọc Lan (2013), Bộ quy tắc ứng xử cho công chức cấp phường - kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật.

- Đoàn Công tác Ban Nội chính Trung ương (2025), Báo cáo kết quả nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống tham nhũng tại Hàn Quốc.

- Thanh tra Chính phủ (2014), Một số kinh nghiệm quốc tế về công tác phòng, chống tham nhũng, Nxb. Lao động

- Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.

- Advisory Committee on the Conduct of Members (2024), 2024 Annual Report, European Parliament.

- The Conflict of Interest and Ethics Commissioner (2015), Overview of the Conflict of Interest Code for Members of the House of Commons.

- Council of Europe, Commission on Combating Corruption of Azerbaijan (2009), Technical Paper: Curbing Corruption by Maximizing Integrity and Efficiency in the Legislative Process: an Overview of the Issues following the Roundtable Discussion on Improving Efficiency and Integrity in the Legislative Process, Milli Majlis of the Republic of Azerbaijan, the Anti-corruption Strategy of Azerbaijan (AZPAC).

- European Parliament (2024), Annex I to Parliament’s Rules of Procedure, Rules of Procedure,truy cập ngày 20/8/2025 tại https://www.europarl.europa.eu/rules/rules20240716/Rules20240716_EN.pdf

- M. Jensen and W. Erhard (2012), Putting Integrity into Finance: A Purely Positive Approach, truy cập tại ssrn.com/abstract=1542759

- Ngân hàng Thế giới, OECD, UNODC (2020), Preventing and Managing Conflicts of Interest in the Public Sector, truy cập ngày 15/8/2025 tại https://www.unodc.org/documents/corruption/Publications/2020/Preventing-and-Managing-Conflicts-of-Interest-in-the-Public-Sector-Good-Practices-Guide.pdf).  

- The Office of Congressional Conduct (OCC), Citizen’s Guide, United States House of Representatives, truy cập ngày 19/8/2025 tại https://conduct.house.gov/about/citizen-s-guide

 TS. Nguyễn Hà Thanh (Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Ban Nội chính Trung ương)

Theo Phaply.net.vn