Chính sách pháp lý thúc đẩy phát triển kinh tế số của một số nước

Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước có nền kinh tế số phát triển mạnh mẽ, cho thấy trong suốt quá trình số hóa, Chính phủ đã dành ưu tiên chú trọng hoàn thiện khung pháp lý, đồng thời đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy và điều tiết nền kinh tế số thông qua việc chủ động tham gia tích cực vào việc định hình chính sách ổn định, nhất quán.

Mỹ - Trung Quốc : 2 cường quốc của kinh tế số chú trọng hoàn thiện khung pháp lý và tích cực định hình chính sách

Cả Mỹ và Trung Quốc đều đã đầu tư đáng kể vào công nghệ và cơ sở hạ tầng số. Mỹ đã đầu tư vào các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, học máy (machine learning) và người máy. Trong khi đó, Trung Quốc tập trung phát triển mạng 5G, chuỗi khối và điện toán đám mây. Cả 2 nước cũng đã đầu tư đáng kể vào nghiên cứu và phát triển. Điều này đã giúp thúc đẩy sự đổi mới trong kinh tế số.

1-1745833393.png

Hai trong số những điểm mạnh của kinh tế số Mỹ là hệ sinh thái đổi mới và khung pháp lý. Còn trong suốt quá trình số hóa, Chính phủ Trung Quốc đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy và điều tiết nền kinh tế số thông qua việc chủ động tham gia tích cực vào việc định hình chính sách và cung cấp khung pháp lý nhằm thúc đẩy môi trường thuận lợi cho những tiến bộ kỹ thuật số, đồng thời duy trì được vai trò điều tiết thị trường hợp lý.

Kinh tế số của Mỹ là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, với quy mô thị trường hơn 1.300 tỷ USD vào năm 2020. Mỹ là quê hương của một số công ty công nghệ thành công nhất thế giới, bao gồm: Apple, Amazon, Google, Facebook và Microsoft đã đi đầu trong đổi mới kỹ thuật số trong nhiều năm và đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình kinh tế số.

Tương tự, kinh tế số của Trung Quốc cũng là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, với quy mô thị trường hơn 1.500 tỷ USD vào năm 2020. Trung Quốc được biết đến với các công ty công nghệ sáng tạo, bao gồm: Alibaba, Tencent, Baidu và JD.com đã đi đầu trong đổi mới kỹ thuật số ở Trung Quốc và giúp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số.

Cả Mỹ và Trung Quốc đều đã đầu tư đáng kể vào công nghệ và cơ sở hạ tầng số. Mỹ đã đầu tư vào các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, học máy (machine learning) và người máy. Trong khi đó, Trung Quốc tập trung phát triển mạng 5G, chuỗi khối và điện toán đám mây. Cả 2 nước cũng đã đầu tư đáng kể vào nghiên cứu và phát triển. Điều này đã giúp thúc đẩy sự đổi mới trong kinh tế số.

Mỹ là nơi sản sinh ra nhiều công ty kỹ thuật số lớn nhất và thành công nhất thế giới, bao gồm: Amazon, Google, Facebook và Apple. Theo Cục phân tích kinh tế Mỹ, kinh tế số chiếm 7,4% GDP của Mỹ vào năm 2018 và con số này dự kiến sẽ tăng lên trong những năm tới. Kinh tế số cũng đã tạo ra hàng triệu việc làm ở Mỹ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ.

Một trong những điểm mạnh của kinh tế số Mỹ là hệ sinh thái đổi mới. Thung lũng Silicon ở California được biết đến là trung tâm công nghệ của thế giới, đã thu hút rất nhiều tài năng và nhà đầu tư giỏi nhất từ khắp nơi trên thế giới. Mỹ là mảnh đất màu mỡ cho ngành đầu tư mạo hiểm phát triển tốt, đã giúp cấp vốn cho nhiều công ty khởi nghiệp công nghệ thành công.

Một thế mạnh khác của kinh tế số Mỹ là khung pháp lý. Trong khi một số người cho rằng những gã khổng lồ công nghệ Mỹ đã trở nên quá quyền lực và thống trị, chính phủ Mỹ đã tích cực thực thi luật chống độc quyền và thúc đẩy cạnh tranh. Ví dụ, Bộ Tư pháp và Ủy ban Thương mại Liên bang đã mở các cuộc điều tra về sức mạnh thị trường của các công ty công nghệ như Google và Facebook.

Tuy nhiên, kinh tế số của Mỹ không phải là không có những thách thức. Một trong những thách thức quan trọng nhất là mối lo ngại ngày càng tăng về quyền riêng tư dữ liệu và an ninh mạng. Nhiều người tiêu dùng và nhà hoạch định chính sách Mỹ lo lắng về việc các công ty công nghệ thu thập và sử dụng dữ liệu cá nhân, đặc biệt là trước nhiều vụ vi phạm dữ liệu và tấn công mạng trong những năm gần đây.

Một thế mạnh của kinh tế số Mỹ là khung pháp lý. Trong khi một số người cho rằng những gã khổng lồ công nghệ Mỹ đã trở nên quá quyền lực và thống trị, chính phủ Mỹ đã tích cực thực thi luật chống độc quyền và thúc đẩy cạnh tranh. Ví dụ, Bộ Tư pháp và Ủy ban Thương mại Liên bang đã mở các cuộc điều tra về sức mạnh thị trường của các công ty công nghệ như Google và Facebook.

Về phía Trung Quốc, kinh tế số của quốc gia này cũng đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, được thúc đẩy bởi sự gia tăng của thương mại điện tử, thanh toán di động và mạng xã hội.

Một trong những điểm mạnh của kinh tế số Trung Quốc là quy mô. Trung Quốc có dân số đông nhất thế giới và tầng lớp trung lưu của nước này đang mở rộng nhanh chóng. Điều này đã tạo ra một thị trường rộng lớn cho các sản phẩm và dịch vụ số. Các công ty kỹ thuật số của Trung Quốc, chẳng hạn như Alibaba, Tencent và Baidu cũng nằm trong số những công ty lớn nhất thế giới và họ đã thành công trong việc mở rộng kinh doanh ra nước ngoài.

Một thế mạnh khác của kinh tế số Trung Quốc là sự hỗ trợ của Chính phủ. Chính phủ Trung Quốc đã coi việc chuyển đổi số là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Đồng thời cung cấp nguồn vốn và ưu đãi đáng kể để hỗ trợ sự phát triển lĩnh vực kỹ thuật số. Chính phủ cũng đã thực hiện các chính sách thúc đẩy đổi mới, chẳng hạn như kế hoạch “Made in China 2025” nhằm phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao.

Trong suốt quá trình số hóa, Chính phủ Trung Quốc đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy và điều tiết nền kinh tế số thông qua việc chủ động tham gia tích cực vào việc định hình chính sách và cung cấp khung pháp lý nhằm thúc đẩy môi trường thuận lợi cho những tiến bộ kỹ thuật số, đồng thời duy trì được vai trò điều tiết thị trường hợp lý.

Chính phủ Trung Quốc sớm có một hệ thống văn bản chiến lược, quy hoạch, quy định, hướng dẫn phát triển kinh tế số trong việc hình thành một hệ thống chiến lược kinh tế số theo liên kết ngang và thâm nhập dọc, đặt mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng mạng, khuyến khích doanh nghiệp tham gia và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp số.

Chính phủ Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của nền kinh tế số, thiết lập hệ sinh thái số mạnh mẽ, đặc thù với các chính sách cụ thể, triển khai một loạt giải pháp quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế số như sau:

Chính sách phát triển hạ tầng số: Trung Quốc đặc biệt chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng số, phát triển mạng thông tin thế hệ mới, mở rộng ứng dụng 5G để tạo tiền đề phát triển nền kinh tế số. Cùng với đầu tư mạnh mẽ vào mạng lưới 5G, Trung Quốc chú trọng phát triển các công nghệ tiên tiến, như trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (big data). Các doanh nghiệp công nghệ lớn, như Baidu, Alibaba, và Tencent đang dẫn đầu thế giới trong việc nghiên cứu và triển khai các giải pháp công nghệ này.

Chính sách phát triển nền tảng số: Trung Quốc  phát triển mạnh các trung tâm dữ liệu lớn và hạ tầng điện toán đám mây để hỗ trợ cho các dịch vụ kỹ thuật số và thương mại điện tử.. Chính phủ Trung Quốc ban hành quy định coi dữ liệu như một loại hàng hóa đặc biệt, được định giá và có thể được mua bán, trao đổi trên các sàn giao dịch dữ liệu, từ đó hình thành ngành công nghiệp dữ liệu với nhiều việc làm mới so với trước đây, điển hình là nghề “dán nhãn dữ liệu”. Với việc giá trị hóa dữ liệu, dữ liệu đã trở thành một nguồn lực mới để hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Chính sách phát triển dịch vụ tài chính số: Hiện nay, Trung Quốc là nước dẫn đầu thế giới về dịch vụ tài chính kỹ thuật số và thanh toán kỹ thuật số. Hệ thống ngân hàng hiện đại hóa phương thức cho vay ngang hàng (P2P lending) truyền thống bằng cách áp dụng công nghệ dựa trên internet và cải thiện quy định pháp lý nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng. Đến nay, Trung Quốc là nước dẫn đầu thị trường cho vay P2P trên toàn cầu với doanh số có thời điểm lên tới 192 tỷ USD, kế đến là Mỹ, Anh, Thụy Sĩ, I-ta-li-a.

Chính sách thúc đẩy khởi nghiệp số: Chính phủ Trung Quốc đang thực hiện hỗ trợ nghiên cứu cơ bản và để duy trì được tốc độ phát triển của nền kinh tế số, nhu cầu đổi mới công nghệ nguyên bản, các nỗ lực nghiên cứu hướng đến các công nghệ cơ bản, bao gồm chip cao cấp, hệ điều hành và trí tuệ nhân tạo sẽ ngày càng tăng.

Trung Quốc  phát triển mạnh các trung tâm dữ liệu lớn và hạ tầng điện toán đám mây để hỗ trợ cho các dịch vụ kỹ thuật số và thương mại điện tử.. Chính phủ Trung Quốc ban hành quy định coi dữ liệu như một loại hàng hóa đặc biệt, được định giá và có thể được mua bán, trao đổi trên các sàn giao dịch dữ liệu, từ đó hình thành ngành công nghiệp dữ liệu với nhiều việc làm mới so với trước đây, điển hình là nghề “dán nhãn dữ liệu”. Với việc giá trị hóa dữ liệu, dữ liệu đã trở thành một nguồn lực mới để hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng nhiều chính sách thuế ưu đãi cho doanh nghiệp công nghệ thông tin, đặc biệt là doanh nghiệp mới và sáng tạo, bao gồm miễn thuế thu nhập doanh nghiệp (tùy theo điều kiện cụ thể) và giảm thuế giá trị gia tăng, cung cấp hỗ trợ tài chính dưới dạng vốn vay ưu đãi và tài trợ nghiên cứu phát triển cho doanh nghiệp công nghệ thông tin, khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đặc biệt là các dự án có liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), và công nghệ chuỗi khối (blockchain).

Singapore với mục tiêu trở thành nước hàng đầu có nền kinh tế số tuần hoàn

Singapore luôn được xếp hạng là một trong những quốc gia có số lượng người dùng Internet cao nhất trên toàn thế giới. Singapore hiện đang chứng minh năng lực của mình về mặt này khi nước này tự hào có tốc độ kết nối băng thông rộng cố định nhanh nhất thế giới theo chỉ số toàn cầu (World Bank Data, 2024).

Môi trường ủng hộ DN, cơ sở hạ tầng công nghệ tuyệt vời, kết nối chặt chẽ với các nền kinh tế lớn của châu Á cũng như sự sẵn sàng đầu tư giúp  Singapore  có một vị trí thuận lợi để phát triển nền kinh tế số mạnh mẽ.

2-1745833401.jpg

Ba chiến lược chính đã được xác định trong Khung hành động của nền kinh tế số (Digital Economy Framework for Action) để tận dụng thế mạnh của Singapore là: + Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Singapore bằng cách số hóa các ngành công nghiệp và DN ; + Phát triển một hệ sinh thái để giúp các DN luôn sôi động và cạnh tranh; + Biến ngành Truyền thông Infocomm trở thành động lực tăng trưởng chính của Nền kinh tế số.

Phong trào Kỹ thuật số Singapore (SG:D) là phản ứng của Singapore đối với CĐS - để giúp các DN và lực lượng lao động chuẩn bị và đón nhận những khả năng này. Phong trào Kỹ thuật số Singapore (SG:D) đã được giới thiệu vào năm 2017 để khuyến khích chính phủ, công ty, tổ chức và các cá nhân hợp tác cùng nhau phát triển kinh tế số. Phong trào SG:D của Singapore phản ứng với CĐS - để trợ giúp các doanh nghiệp và lực lượng lao động chuẩn bị và nắm lấy những khả năng này.

Ba ưu tiên chiến lược của Singapore trong SG:D có thể được thực hiện với bốn yếu tố hỗ trợ chính:

Một là, Phát triển nhân lực: Tiếp tục nâng cao kỹ năng và đào tạo lại kỹ năng để các chuyên gia ICM cũng như nâng cao hiểu biết kỹ thuật số của lực lượng lao động nhằm đối mặt với những thách thức của nền kinh tế số.

Hai là, Nghiên cứu & Đổi mới: Mang lại cho các công ty lợi thế cạnh tranh để bắt kịp các xu hướng mới nhất trong công nghệ thông qua các lộ trình nhằm thông báo và dự đoán những phát triển mới.

Ba là, Cơ sở hạ tầng Vật lý & Kỹ thuật số: Tiếp tục đầu tư để thúc đẩy cơ sở hạ tầng của Singapore và tăng cường kết nối kỹ thuật số khi công nghệ phát triển.

Bốn là, Quản trị, Chính sách và Tiêu chuẩn: Luật bảo mật dữ liệu chặt chẽ, an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu, cũng như các nỗ lực liên tục nhằm hiệu chỉnh việc quản lý chính sách dữ liệu và các hoạt động liên quan như AI.

Khung Hành động trong nền kinh tế số tìm cách cung cấp một hướng dẫn để giúp Singapore: (i) Mệnh lệnh số đặt ra lý do tại sao Singapore nên chú ý đến kinh tế số; (ii) Định hình một nền kinh tế số hàng đầu thế giới bằng phác thảo cách Singapore có thể đối mặt với những thách thức và nắm bắt cơ hội của tương lai; (iii) Hành động trong một nền kinh tế số mới nhiều cơ hội liệt kê các cơ hội và các chương trình có sẵn nào cho các công ty, người lao động và cộng đồng để hành động.

Mục tiêu của Singapore là trở thành nước hàng đầu có nền kinh tế số tuần hoàn. Bản chất của nền kinh tế số yêu cầu chính phủ xem xét, làm mới và sáng tạo lại chiến lược khi môi trường thay đổi. Chính phủ  hợp tác với các doanh nghiệp, cá nhân và các bên liên quan khác để cùng tạo ra tương lai, và giữ cho Singapore luôn dẫn đầu trong cảnh quan luôn phát triển.

Malaysia - Quốc gia đầu tiên của Đông Nam Á ban hành Luật Bảo vệ dữ liệu

Malaysia là quốc gia đầu tiên của Đông Nam Á ban hành và thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu (Data Protection Act). Chính phủ Malaysia cũng đề ra một số kế hoạch và dự án nhằm nâng cao hạ tầng kinh tế số của quốc gia này, như: Dự án HSBB 1 đã cung cấp hơn 1 triệu cổng kết nối với tốc độ 10Mb/s; dự án HSBB 2 cung cấp 390.000 cổng mới cho các thủ phủ của tiểu bang, thị trấn và các khu vực tăng trưởng cao sử dụng FTTH, ETTH và VDSL lên đến 100Mbps; dự án RBB mở rộng dịch vụ băng thông rộng tại nông thôn; dự án SUBB cung cấp 420.000 cổng mới từ 421 sàn giao dịch và nâng cấp các đường dây đồng hiện có cung cấp băng thông rộng ở các vùng ngoại ô và nông thôn bên ngoài khu vực HSBB và HSBB2 với tốc độ 20Mbps.

3-1745833401.jpg

Chương trình: “MSC Malaysia” (MSC) với mục tiêu hỗ trợ công ty công nghệ địa phương phát triển, thu hút vốn trong và ngoài nước đã mang lại thành quả rõ rệt. Chương trình “Doanh nhân công nghệ Malaysia” (MTEP - Malaysia Tech Entrepreneur Programme) là chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khá rõ nét của Malaysia. Điều đặc biệt của chương trình này là hỗ trợ các thành viên, các doanh nghiệp tham gia được hưởng những ưu đãi về thuế, cụ thể: 70%- 100% số thuế thu nhập của doanh nghiệp sẽ được cắt giảm trong vòng 5 - 10 năm nếu tuân thủ đầy đủ những điều kiện mà chương trình đưa ra. Ngoài ra, MSC còn thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế số thông qua những tiện ích nhằm hội tụ không chỉ các doanh nghiệp mà cả những sinh viên, học viên và các chuyên gia trong lĩnh vực thành những khối gắn với mục tiêu khuyến khích sự chia sẻ nguồn lực, hợp tác và tiếp cận các phương pháp hiệu quả.

Bên cạnh đó, Malaysia xây dựng “Chương trình Doanh nhân Công nghệ Malaysia” (MTEP - Malaysia Tech Entrepreneur Programme) nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. MTEP có thể trao cơ hội cho những doanh nhân mong muốn xây dựng các dự án kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ bằng cách cấp thị thực 1 năm đối với người chưa có kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp và 5 năm cho những người đã có kinh nghiệm. Trong kế hoạch tổng thể về kinh tế số, Malaysia nhấn mạnh vào phát triển thương mại điện tử bởi vì Malaysia xác định đó là hướng phát triển phù hợp trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP) đi vào thực hiện. Cùng với phát triển thương mại điện tử, Malaysia cũng thúc đẩy mạnh việc chuyển đổi số trong lĩnh vực dịch vụ công. Quốc gia này thành lập Bộ phận quản lý và hiện đại hóa hành chính Malaysia (MAMPU) trực thuộc Văn phòng Thủ tướng để chuyển đổi hoạt động cung cấp dịch vụ công thông qua đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Mục tiêu chính của MAMPU là phát triển dữ liệu số, đám mây và an ninh mạng trong việc cung cấp các dịch vụ công.

Malaysia có các chương trình bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật số. Đây là chương trình đào tạo với mục đích truyền tải những giá trị, kiến thức về kinh doanh kỹ thuật số đến những người kinh doanh trẻ ở khu vực nông thôn, giúp họ ứng dụng kỹ năng về truyền thông, quảng cáo để tăng doanh số bán hàng và cải thiện thu nhập. Đồng thời, với nền tảng “eRezeki”, Chính phủ Malaysia cũng tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân Malaysia, từ những người thợ sửa ống nước đến những người phụ nữ nội trợ. Thông qua đây, họ có thể đăng ký để trở thành những công nhân kỹ thuật số, làm những nhiệm vụ dựa trên các kỹ năng kỹ thuật số đơn giản và kiếm thêm thu nhập mà không phải ra khỏi nhà.

Chương trình "MSC Malaysia" (MSC) đã đạt được những kết quả đáng chú ý khi giúp các doanh nghiệp tại từng khu vực trong việc tăng cường và thu hút vốn trong và ngoài nước. "Chương trình Doanh nhân Công nghệ Malaysia" (MTEP) là chính sách khá rõ ràng về mục đích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Malaysia. Điểm độc đáo của chương trình này là cung cấp các ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp và thành viên tham gia. Cụ thể, mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là 70% đến 100% trong khoảng thời gian lên tới 10 năm trong trường hợp doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu của dự án. Hơn nữa, MSC cũng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số bằng cách cung cấp các cơ sở kết nối các doanh nghiệp, sinh viên, giảng viên và các cá nhân xuất sắc trong ngành công nghệ và kỹ thuật số.

Hàn Quốc: khuyến khích đổi mới sáng tạo của khu vực tư nhân thông qua các chính sách điều tiết nhất quán

Để phát triển nền kinh tế số, trước hết, Hàn Quốc đã chủ động thực hiện chính sách phổ cập Internet cho người dân. Tỷ lệ số hộ gia đình Hàn Quốc kết nối mạng internet đạt 99,2%, đứng đầu trong số 175 quốc gia thuộc Liên minh viễn thông quốc tế (ITU). Theo tổ chức nghiên cứu Internet Akamai, Hàn Quốc hiện là quốc gia có tốc độ kết nối internet nhanh nhất thế giới, vượt trên cả Nhật Bản và Mỹ. Có được thành công trong việc phổ cập Internet tốc độ cao ở Hàn Quốc trước hết là nhờ Chính phủ nước này đã kịp thời và triển khai mạnh mẽ các sáng kiến về giáo dục và hạ tầng công nghệ thông tin nên đã tạo được một khởi đầu hoàn hảo và các chính sách này đang tiếp tục được thực hiện hiệu quả.

Cùng với đó, Chính phủ cũng duy trì được môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới sáng tạo của khu vực tư nhân thông qua các chính sách điều tiết nhất quán. Các chính sách này đảm bảo việc giảm các trở ngại đối với các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) mới, thúc đẩy một môi trường cạnh tranh. Đặc biệt, Chính phủ nước này cũng khuyến khích xây dựng mối quan hệ hợp tác gắn kết giữa khu vực tư nhân được Chính phủ hậu thuẫn với khu vực công trong xây dựng hạ tầng mạng Internet.

4-1745833401.jpg

Nhờ chính sách phổ cập Internet thành công đã giúp cho thương mại điện tử của Hàn Quốc cũng phát triển bùng nổ. Đặc biệt, Chính phủ Hàn Quốc đã quy định cho phép sử dụng chữ ký trực tuyến trong thương mại điện tử với đầy đủ tư cách pháp lý như chữ ký tươi trên văn bản giấy tờ. Ngay từ năm 1999, quy định này đã được ban hành và cho phép chữ ký điện tử được sử dụng làm bằng chứng trong các vấn đề pháp lý. Để tăng cường an ninh trong thương mại điện tử, Chính phủ cũng đã phát triển các quy định liên quan đến bảo vệ thông tin cá nhân và hướng dẫn khu vực tư nhân sử dụng công nghệ mã hóa.

Ngân hàng điện tử (E-banking) cũng đã được giới thiệu tại Hàn Quốc từ năm 1999. Hầu hết các ngân hàng tăng thêm 0,1-0,5 điểm phần trăm lãi suất huy động cho khách hàng đăng ký Internet banking, và cho họ 0,5 điểm phần trăm chiết khấu trên lãi suất cho vay.

Bên cạnh chính sách phổ cập Internet và chính sách phát triển thương mại điện tử, Hàn Quốc cũng chú trọng xây dựng chính phủ điện tử (E-government) nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền kinh tế số hóa.

Các sáng kiến chính phủ điện tử của Hàn Quốc tập trung vào 3 mảng dịch vụ chính, bao gồm: (1) Chính phủ vì Công dân (G4C); (2) Chính phủ với Doanh nghiệp (G2B); và (3) Chính phủ với Chính phủ (Dịch vụ liên chính phủ - G2G). Hàng ngàn các dịch vụ công đã có sẵn trên mạng thông qua các biểu mẫu điện tử trên khắp các trang web chính phủ trung ương, khu vực và địa phương. Chính phủ Hàn Quốc hiện đang củng cố các chương trình đang triển khai để hướng dẫn công chúng nắm bắt và áp dụng mạng Internet và công nghệ thông tin vào cuộc sống hàng ngày với mục đích làm cho các dịch vụ công có sẵn qua hình thức điện tử mọi nơi mọi lúc.

Nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ, Hàn Quốc luôn nằm trong nhóm các nước dẫn đầu về Chỉ số sẵn sàng về Chính phủ điện tử do Liên hợp quốc xây dựng.

 Hồng Quân

Theo Phaply.net