Nghị quyết 66-NQ/TW mở đường, khơi thông nguồn lực phát triển
Sau phát biểu khai mạc của Ban tổ chức, các đại biểu tiến hành trình bày các tham luận. Về Chuyên đề “Tư duy thể chế đột phá và đổi mới hệ thống pháp luật”, các đại biểu đã tham luận sôi nổi.
TS Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy; Phó Chủ tịch thường trực Hội Luật gia Việt Nam, đặt vấn đề: Đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và hội nhập sâu rộng với thế giới, yêu cầu đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đặt ra ngày càng cấp thiết. Trước yêu cầu của kỷ nguyên phát triển bứt phá, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW, đây là “đột phá của đột phá” trong tiến trình hoàn thiện thể chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nghị quyết 66-NQ/TW đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng; xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, là động lực phát triển; khẳng định xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, tiếp thu tinh hoa nhân loại, đồng thời chú trọng văn hóa tuân thủ và thượng tôn Hiến pháp, pháp luật. Nghị quyết đặt ra lộ trình đến năm 2030, hình thành hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, khả thi, tạo nền tảng đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, xây dựng hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực quốc tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Đáng lưu ý, theo TS Nguyễn Công Phàn là Nghị quyết 66-NQ/TW cũng đặt ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm và với cách tiếp cận toàn diện, Nghị quyết 66 không chỉ định hướng đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, mà còn mở đường, khơi thông nguồn lực phát triển, coi pháp luật là động lực, là lợi thế cạnh tranh, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng vào giữa thế kỷ XXI.

Nghị quyết 66 không chỉ định hướng đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, mà còn mở đường, khơi thông nguồn lực phát triển…
Đề cập 5 điểm đột phá mới của Nghị quyết 66-NQ/TW, TS Nguyễn Công Phàn khẳng định Nghị quyết 66-NQ/TW có ý nghĩa và tác động đối với sự phát triển đất nước. Đó là hoàn thiện thể chế, củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Tạo động lực cho đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển kinh tế số; Tăng cường hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế Việt Nam; Góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia phát triển, trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045.
Tư duy thể chế đột phá và yêu cầu đổi mới hệ thống pháp luật
Chuyên đề 1 của Hội thảo mở đầu với chủ đề “Nghị quyết 66-NQ/TW – Tư duy thể chế đột phá và yêu cầu đổi mới hệ thống pháp luật”. Bốn tham luận trong chuyên đề, đến từ những học giả và nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đã đặt nền tảng lý luận và thực tiễn cho toàn bộ hội thảo, khẳng định Nghị quyết 66 không chỉ là một văn bản chỉ đạo mà còn là một tuyên ngôn về tư duy thể chế mới, coi pháp luật là động lực trung tâm cho phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Trong bài Nghị quyết 66-NQ/TW – Đột phá trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, động lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, TS. Trần Công Phàn nhấn mạnh rằng nghị quyết này đánh dấu bước ngoặt lớn trong tiến trình hoàn thiện thể chế ở Việt Nam. Điểm nổi bật được ông chỉ ra là việc Nghị quyết không chỉ chú trọng số lượng văn bản luật, mà đặt trọng tâm vào tính hiệu quả và khả năng đi vào cuộc sống. Theo ông, thành công của Nghị quyết sẽ được đo lường bằng mức độ mà pháp luật thực sự trở thành động lực đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước pháp quyền XHCN.
Phát triển tư tưởng này, PGS, TS Trần Mai Ước trong bài Những vấn đề cần quan tâm để Nghị quyết 66-NQ/TW trở thành tư duy thể chế đột phá trong kỷ nguyên phát triển mới đã phân tích những yêu cầu căn bản để Nghị quyết trở thành hiện thực. Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải từ bỏ tư duy quản lý theo kiểu “không quản được thì cấm”, thay vào đó là cách tiếp cận kiến tạo, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Theo ông, đây chính là sự đột phá về tư duy, biến pháp luật từ công cụ quản lý hành chính trở thành công cụ thúc đẩy phát triển, giải phóng nguồn lực và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Ở góc độ kinh nghiệm quốc tế, TS. Nguyễn Hà Thanh trong bài Kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm liêm chính trong công tác xây dựng chính sách, pháp luật và khuyến nghị cho Việt Nam đưa ra những minh chứng từ nhiều quốc gia. Ông chỉ ra rằng liêm chính là yếu tố then chốt bảo đảm cho chất lượng và uy tín của hệ thống pháp luật. Nếu quy trình xây dựng luật thiếu minh bạch, dễ bị chi phối bởi lợi ích nhóm, thì pháp luật khó có thể trở thành động lực phát triển. Từ kinh nghiệm quốc tế, ông kiến nghị Việt Nam cần xây dựng cơ chế phòng ngừa tham nhũng ngay từ khâu soạn thảo chính sách, tăng cường minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình. Đây chính là điểm tựa để Nghị quyết 66 không chỉ là định hướng chính trị, mà còn trở thành hiện thực trong quản trị quốc gia.
Kết nối các luận điểm trên, ThS. Nguyễn Thị Thanh Bình trong bài Những cơ chế thiết yếu và cơ bản để chuyển hoá tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW thành hành động hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đã đề xuất những giải pháp cụ thể. Theo bà, để tinh thần Nghị quyết được chuyển hóa thành hành động, cần thiết lập cơ chế tài chính ổn định, nâng cao năng lực dự báo chính sách, phát triển nguồn nhân lực pháp lý chất lượng cao, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát và phản biện xã hội hiệu quả. Chỉ khi có sự phối hợp đồng bộ giữa các yếu tố này, Nghị quyết 66 mới có thể trở thành động lực thực sự cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Tựu trung, bốn tham luận trong Chuyên đề 1 đã đặt nền móng cho toàn bộ hội thảo. Các tác giả, từ những góc nhìn khác nhau, đều khẳng định Nghị quyết 66 là sự đột phá về tư duy thể chế, mở đường cho việc chuyển đổi hệ thống pháp luật theo hướng kiến tạo, minh bạch, hiện đại và hiệu quả. Chuyên đề này không chỉ làm sáng rõ tính cấp thiết của Nghị quyết, mà còn đưa ra các gợi mở quan trọng về cơ chế, nhân lực và giá trị liêm chính – những yếu tố cốt lõi để Nghị quyết 66 thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên hội nhập.
Hội LGVN đang đứng trước một cơ hội lớn để khẳng định vị thế của mình
Chuyên đề 2 của Hội thảo xoay quanh chủ đề “Vai trò, thực trạng và giải pháp phát huy hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW”. Sáu tham luận trong chuyên đề đã tập trung làm rõ một vấn đề cốt lõi: Nghị quyết 66 chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu Hội Luật gia Việt Nam – tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp của giới luật gia – thực sự phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng, phổ biến và phản biện pháp luật.
Trong bài Phát huy vai trò của Hội Luật gia Việt Nam trong thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW: Từ nhận thức đến hành động, TS. Trần Công Phàn nhấn mạnh rằng Hội đang đứng trước một cơ hội lớn để khẳng định vị thế của mình trong tiến trình đổi mới pháp luật. Theo ông, Hội không thể chỉ dừng lại ở những hoạt động quen thuộc như phổ biến pháp luật, mà cần chuyển mình thành một chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng, phản biện và giám sát chính sách ngay từ giai đoạn đầu. Sự chuyển đổi này không chỉ là yêu cầu của Nghị quyết mà còn là nhu cầu khách quan từ thực tiễn đời sống pháp lý.
Tiếp nối mạch này, GS.TS Phan Trung Lý trong bài Nghị quyết 66-NQ/TW với yêu cầu phát huy vai trò của Hội Luật gia Việt Nam trong xây dựng thể chế pháp luật kỷ nguyên phát triển mới chỉ ra rằng Hội cần trở thành kênh tham mưu, tư vấn có uy tín cho Đảng và Nhà nước. Ông nhấn mạnh rằng Nghị quyết 66 đã mở ra một không gian thể chế mới, đòi hỏi Hội phải nâng cao năng lực nghiên cứu, nắm bắt kịp thời những vấn đề phát sinh, từ đó đóng góp vào việc hoạch định chính sách một cách chủ động và khoa học.

GS.TS Phan Trung Lý: Nghị quyết 66 đã mở ra một không gian thể chế mới, đòi hỏi Hội phải nâng cao năng lực nghiên cứu, nắm bắt kịp thời những vấn đề phát sinh, từ đó đóng góp vào việc hoạch định chính sách một cách chủ động và khoa học
Ở khía cạnh nhân sự, Hà Công Anh Bảo với bài Xây dựng đội ngũ luật gia chuyên nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Chuẩn đạo đức, nghề nghiệp, công vụ và hội nhập nhấn mạnh rằng muốn Hội hoạt động hiệu quả thì đội ngũ luật gia phải được chuyên nghiệp hóa. Không chỉ giỏi chuyên môn, họ còn phải đạt chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp, có khả năng hội nhập và thích ứng với các chuẩn mực pháp lý quốc tế. Đây là điều kiện để Hội khẳng định vai trò trong cả nước cũng như trên trường quốc tế.

TS. Hà Công Anh Bảo: “Muốn Hội hoạt động hiệu quả thì đội ngũ luật gia phải được chuyên nghiệp hóa. Không chỉ giỏi chuyên môn, họ còn phải đạt chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp, có khả năng hội nhập và thích ứng với các chuẩn mực pháp lý quốc tế”
Sự chuyên nghiệp hóa đội ngũ được bổ sung bởi góc nhìn về liên kết tổ chức trong bài Hội Luật gia Việt Nam trong hệ sinh thái đổi mới pháp luật: Liên kết với Viện nghiên cứu, Hội nghề nghiệp, cơ quan Nhà nước của PGS.TS Nguyễn Thanh Nam. Tác giả nhấn mạnh rằng Hội không thể hoạt động đơn lẻ, mà cần tạo dựng mạng lưới liên kết với các viện nghiên cứu, các hội nghề nghiệp khác, cũng như với cơ quan nhà nước. Chỉ khi nằm trong một hệ sinh thái đổi mới pháp luật, Hội mới phát huy được vai trò cầu nối, đưa tiếng nói của luật gia đến với chính sách và pháp luật.
Ở góc độ gần gũi với thực tiễn doanh nghiệp, Trần Thanh Hơn với bài Đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống: Nâng cao năng lực phổ biến pháp luật và hỗ trợ pháp lý của Hội Luật gia Việt Nam đối với cộng đồng doanh nghiệp nhấn mạnh đến trách nhiệm của Hội trong việc đồng hành với doanh nghiệp. Hội cần hỗ trợ pháp lý, giải thích chính sách, tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp, từ đó biến pháp luật thành công cụ thúc đẩy phát triển kinh tế chứ không phải rào cản.
Cuối cùng, Nguyễn Thị Huyền trong bài Các Chi hội Luật gia Cụm thi đua số 6 thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW… đã minh chứng cho sự cụ thể hóa tinh thần nghị quyết ở cấp cơ sở. Qua việc triển khai trong các chi hội, Nghị quyết 66 không còn dừng ở tầm định hướng mà thực sự đi vào đời sống, gắn với những hoạt động thiết thực của các hội viên, đặc biệt là trong công tác phổ biến pháp luật, phản biện xã hội và hỗ trợ cộng đồng.
Chuyên đề 2 đã làm rõ vai trò thiết yếu của Hội Luật gia Việt Nam trong việc đưa Nghị quyết 66 vào thực tế. Các tham luận đã bổ sung, đối thoại và làm phong phú cho nhau: từ nhận thức đến hành động, từ xây dựng thể chế đến chuyên nghiệp hóa nhân lực, từ liên kết tổ chức đến hỗ trợ doanh nghiệp và hoạt động ở cơ sở. Thông điệp chung rút ra là Hội Luật gia Việt Nam không chỉ là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, mà là một lực lượng nòng cốt trong công cuộc đổi mới pháp luật, đồng hành cùng Nhà nước và nhân dân để biến pháp luật thành động lực phát triển đất nước.
Cần một hệ thống pháp luật mở ra để toàn xã hội cùng tham gia kiến tạo
Chuyên đề 3 của Hội thảo tập trung vào chủ đề “Hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng xây dựng và thi hành pháp luật”. Chín tham luận trong chuyên đề đã cùng nhau soi chiếu những vấn đề trọng tâm của Nghị quyết 66-NQ/TW, từ phản biện xã hội, cơ chế phản hồi chính sách, đào tạo và thu hút nhân lực pháp lý, vai trò của viện nghiên cứu và báo chí, cho đến chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tư pháp. Mặc dù mỗi tác giả tiếp cận từ một khía cạnh khác nhau, nhưng tất cả đều hội tụ ở một điểm chung: muốn Nghị quyết 66 thành công, cần một hệ thống pháp luật vừa vững chắc về lý luận, vừa linh hoạt trong thực tiễn, vừa mở ra để toàn xã hội cùng tham gia kiến tạo.
Trong bài Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong kỷ nguyên mới: Lý luận, thực tiễn và định hướng, TS. Phạm Thu Hương phân tích rằng phản biện xã hội là công cụ dân chủ đặc biệt, giúp kết nối ý chí của nhân dân với hoạt động xây dựng pháp luật. Theo bà, để phản biện xã hội thực sự hiệu quả, cần đổi mới quy trình, nâng cao chất lượng tham vấn và quan trọng nhất là bảo đảm sự tiếp thu thực chất từ phía cơ quan nhà nước. Nhận định này mở ra hướng đi cho việc gắn phản biện xã hội như một cấu phần của tiến trình pháp luật, thay vì chỉ là hoạt động bổ trợ.
Ý tưởng về sự tham gia của xã hội tiếp tục được phát triển trong bài Cơ chế phản hồi chính sách hai chiều: Yêu cầu tất yếu trong quản trị hiện đại ở Việt Nam hiện nay của TS. Lưu Đình Vinh. Tác giả nhấn mạnh rằng phản biện chỉ là một nửa của quá trình; nếu Nhà nước không phản hồi lại, sẽ khó tạo niềm tin. Một cơ chế phản hồi chính sách minh bạch, công khai sẽ giúp pháp luật không rơi vào tình trạng “văn bản một chiều”, mà trở thành quá trình đối thoại liên tục giữa Nhà nước và nhân dân. Tư duy này đặc biệt phù hợp với tinh thần Nghị quyết 66, vốn nhấn mạnh gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật.
Ở khía cạnh nhân lực, TS. Hà Công Anh Bảo với bài Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý – gắn với nhu cầu địa phương và yêu cầu hội nhập chỉ ra khoảng trống lớn trong công tác đào tạo hiện nay. Ông cho rằng đội ngũ cán bộ pháp lý không thể chỉ học lý thuyết, mà cần gắn với thực tiễn quản trị địa phương, đồng thời đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Đây là giải pháp giúp đội ngũ pháp luật vừa gần dân, vừa sẵn sàng hội nhập. Cùng mạch tư duy ấy, PGS, TS Nguyễn Ngọc Hà trong bài Thu hút và phát triển đội ngũ chuyên gia pháp luật tư vấn cho Chính phủ về thương mại, đầu tư quốc tế khẳng định rằng trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam đang thiếu lực lượng chuyên gia đủ tầm để tranh tụng và tư vấn trong các vụ việc quốc tế. Ông đề xuất cơ chế đãi ngộ, khuyến khích và tận dụng nguồn lực trí thức trong và ngoài nước, biến đội ngũ này thành “lá chắn pháp lý” bảo vệ lợi ích quốc gia. Hai tham luận này bổ sung lẫn nhau, cho thấy Nghị quyết 66 chỉ có thể triển khai thành công nếu có một lực lượng nhân sự pháp lý vừa đông đảo, vừa tinh hoa.
Không dừng lại ở nhân lực, các tham luận khác mở rộng bàn về vai trò của thiết chế nghiên cứu và truyền thông. Trong bài “Bộ tứ trụ cột” – cơ hội để các Viện nghiên cứu khoa học pháp lý đổi mới và nâng cao vai trò trong tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Luật gia Lê Minh Trung nhấn mạnh rằng các viện nghiên cứu không thể đứng ngoài quá trình lập pháp, mà phải cung cấp luận cứ khoa học, tham gia phân tích tác động chính sách, dự báo xu hướng. Trong khi đó, TS. Huỳnh Văn Thông với bài Thể chế hoá vai trò báo chí, truyền thông chuyên ngành trong giám sát lập pháp và thực thi pháp luật đã khẳng định rằng báo chí phải luôn công khai và minh bạch, phát hiện bất cập và kiến nghị điều chỉnh. Sự hiện diện của viện nghiên cứu và báo chí cho thấy quá trình xây dựng pháp luật không chỉ thuộc về cơ quan nhà nước, mà là sự chung sức của các chủ thể xã hội khác nhau.
Điểm nhấn hiện đại của Chuyên đề 3 đến từ hai tham luận về công nghệ. Trong bài Chuyển đổi số trong lập pháp và thi hành pháp luật: Trí tuệ nhân tạo và dữ liệu mở – Thách thức và cơ hội, TS. Phùng Thị Yến cho rằng công nghệ số có thể giúp tạo ra một hệ thống pháp luật minh bạch, dự báo tốt, hạn chế tham nhũng vặt, đồng thời rút ngắn thời gian và chi phí trong quy trình pháp lý. Tuy vậy, bà cũng cảnh báo những rủi ro về quyền riêng tư, an ninh dữ liệu và khả năng lệ thuộc công nghệ. Mở rộng hơn, NCS Trần Thanh Tâm trong bài Ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong hoạt động của Toà án: Kinh nghiệm từ “Toà án thông minh” của Trung Quốc và định hướng cho Việt Nam đã chứng minh tính khả thi của việc số hóa tư pháp. Theo ông, AI và dữ liệu lớn có thể hỗ trợ thẩm phán, tăng minh bạch trong xét xử, và quan trọng nhất là củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống tòa án. Đây chính là bước đi phù hợp với yêu cầu Nghị quyết 66 về hiện đại hóa hoạt động tư pháp.
Nhìn tổng thể, tám tham luận trong Chuyên đề 3 đã tạo nên một bức tranh gắn kết, từ phản biện xã hội đến phản hồi chính sách, từ đào tạo nhân lực đến thu hút chuyên gia, từ nghiên cứu khoa học đến báo chí, và từ chuyển đổi số đến tòa án thông minh. Các bài viết không chỉ nêu ra thách thức mà còn mở ra giải pháp để Nghị quyết 66 đi vào thực tế. Thông điệp nổi bật nhất là: pháp luật không thể chỉ là sản phẩm của cơ quan nhà nước, mà phải là quá trình chung của toàn xã hội, được xây dựng trên nền tảng tri thức, khoa học và công nghệ, nhằm đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu một hệ thống pháp luật hiện đại, minh bạch và hội nhập.
Hoàn thiện pháp luật để kiến tạo, thúc đẩy đổi mới và hội nhập
Chuyên đề 4 của Hội thảo bàn về “Góp ý hoàn thiện pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể gắn với yêu cầu cải cách, hội nhập”. Với tám tham luận, chuyên đề này đã mở rộng phạm vi thảo luận từ trọng tài thương mại, ngân hàng, đất đai, hình sự, sở hữu trí tuệ đến vấn đề bảo vệ dữ liệu và không hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế. Điểm nổi bật của các tham luận là tuy bàn về những lĩnh vực cụ thể, nhưng tất cả đều quy chiếu về tinh thần chung của Nghị quyết 66 – đó là hoàn thiện pháp luật không chỉ để quản lý mà để kiến tạo, thúc đẩy đổi mới và hội nhập.
Ba tham luận đầu tiên tập trung vào lĩnh vực trọng tài thương mại – một thiết chế quan trọng trong giải quyết tranh chấp. Trong bài Tăng cường vai trò của trọng tài thương mại trong cải cách thể chế thực thi pháp luật, Luật gia Lê Đông Triều nhấn mạnh rằng trọng tài cần được nhìn nhận như một công cụ song hành với tòa án, góp phần giảm tải cho hệ thống tư pháp và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. Bài viết Hoàn thiện pháp luật về trọng tài, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế: Từ kinh nghiệm thực tiễn và nhu cầu hội nhập của TS.Bùi Thị Hằng Nga và ThS. Tôn Trung Tuấn bổ sung thêm những phân tích cụ thể, chỉ ra những bất cập trong khung pháp lý hiện hành, đồng thời kiến nghị hoàn thiện luật trọng tài để phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiếp đó, TS. Phạm Thị Diệp Hạnh trong bài Trọng tài trực tuyến – Kinh nghiệm của Singapore đã đưa ra minh chứng về việc số hóa hoạt động trọng tài, mở ra hướng đi cho Việt Nam trong việc áp dụng mô hình trọng tài trực tuyến, đáp ứng yêu cầu của thời đại số và xu thế toàn cầu hóa.

PGS,TS Viên Thế Giang cho rằng sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, giới chuyên gia và đội ngũ luật gia sẽ là chìa khóa để xây dựng khung pháp lý vừa an toàn, vừa khuyến khích sáng tạo trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng
Lĩnh vực ngân hàng và đất đai cũng được chú trọng trong chuyên đề. Trong bài Cơ hội và thách thức trong hoàn thiện pháp luật ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế số, PGS,TS Viên Thế Giang nhấn mạnh vai trò trung tâm của hệ thống ngân hàng trong quá trình chuyển đổi số. Ông cho rằng sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, giới chuyên gia và đội ngũ luật gia sẽ là chìa khóa để xây dựng khung pháp lý vừa an toàn, vừa khuyến khích sáng tạo trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. PGS, TS Trần Mai Ước và Luật gia Trần Thanh Hơn, trong bài Những vấn đề cơ bản liên quan đến hoàn thiện pháp luật đất đai theo hướng pháp luật kiến tạo phát triển, lại chỉ ra rằng đất đai luôn là một trong những lĩnh vực phức tạp nhất, nơi pháp luật vừa phải bảo đảm quản lý chặt chẽ, vừa phải khơi thông nguồn lực phát triển. Hai tác giả kiến nghị pháp luật đất đai cần được hoàn thiện theo hướng minh bạch, ổn định và thân thiện với nhà đầu tư, qua đó biến đất đai thành động lực thay vì điểm nghẽn cho phát triển. Đồng tình với quan điểm này, trong bài Hoàn thiện pháp luật đất đai theo hướng pháp luật kiến tạo phát triển, ThS Nguyễn Đức Tính đã đề xuất 4 giải pháp cụ thể về hình thức nộp tiền thuê đất, qui định thu hồi đất, sửa đổi Luật đất đai và nhấn mạnh việc bổ sung nguyên tắc ban hành, áp dụng pháp luật.
Các tham luận khác mở rộng thảo luận sang lĩnh vực hình sự và sở hữu trí tuệ. Trong bài Một số vấn đề về nội luật hoá quy định của điều ước quốc tế trong xây dựng pháp luật hình sự ở Việt Nam,TS. Phạm Đức Trọng khẳng định rằng hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam phải hài hòa với các cam kết quốc tế. Ông đề xuất cần tăng cường nội luật hóa các quy định quốc tế, đồng thời bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn trong nước. Ở góc độ mới của kỷ nguyên số, Lưu Thị Bích Hạnh với bài Thách thức mới về bảo vệ dữ liệu trong thời đại kinh tế số dưới góc nhìn của Luật Sở hữu trí tuệ phân tích rằng dữ liệu đang trở thành “tài sản” có giá trị cao, nhưng pháp luật Việt Nam hiện vẫn còn thiếu khung pháp lý toàn diện để bảo vệ quyền sở hữu dữ liệu. Việc hoàn thiện khung pháp luật này vừa bảo vệ lợi ích của tổ chức, cá nhân, vừa giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào nền kinh tế số toàn cầu.
Kết thúc chuyên đề, Khổng Vũ Hà và Trần Văn Dũng trong bài Nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện xây dựng pháp luật theo định hướng không hình sự hoá quan hệ dân sự, kinh tế đã nhấn mạnh yêu cầu phân định rõ ràng giữa quan hệ dân sự, kinh tế và quan hệ hình sự. Theo các tác giả, việc hình sự hóa tràn lan các tranh chấp kinh tế không những gây bất an cho doanh nghiệp mà còn cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Do đó, định hướng “không hình sự hóa” là cần thiết để tạo môi trường pháp lý ổn định, an toàn, khuyến khích sáng tạo và đầu tư.
Chín tham luận trong Chuyên đề 4 đã bao quát nhiều lĩnh vực pháp luật cụ thể, từ trọng tài thương mại, ngân hàng, đất đai, hình sự, sở hữu trí tuệ đến bảo vệ dữ liệu và quan hệ kinh tế. Dù mỗi lĩnh vực có đặc thù riêng, nhưng tất cả đều cho thấy nhu cầu cấp thiết phải hoàn thiện pháp luật theo hướng minh bạch, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế và thúc đẩy phát triển bền vững. Đây cũng chính là sự cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW: coi pháp luật không chỉ là công cụ quản lý, mà còn là nền tảng và động lực để Việt Nam hội nhập, kiến tạo và phát triển trong kỷ nguyên mới.
Tổng kết Hội thảo
Hội thảo khẳng định Nghị quyết 66-NQ/TW là bước ngoặt trong tư duy thể chế và công tác xây dựng, thi hành pháp luật, coi pháp luật là công cụ kiến tạo, minh bạch và thúc đẩy phát triển bền vững. Thành công của Nghị quyết phụ thuộc vào sự tham gia đồng bộ của nhiều chủ thể: Hội Luật gia, viện nghiên cứu, báo chí, chuyên gia pháp lý, doanh nghiệp và người dân, với vai trò từ xây dựng, phản biện đến giám sát và phổ biến pháp luật.
Các tham luận cũng nhấn mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn để nâng cao minh bạch, hiệu quả và hiện đại hóa hệ thống pháp luật. Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, ngân hàng, đất đai, hình sự, trọng tài và sở hữu trí tuệ phải theo hướng minh bạch, ổn định, phù hợp thông lệ quốc tế và thúc đẩy sáng tạo, phát triển bền vững.
Tựu trung, hội thảo gửi thông điệp rõ ràng: pháp luật là động lực phát triển, Nghị quyết 66 là bản thiết kế thể chế có tầm nhìn dài hạn, mở đường cho một hệ thống pháp luật hiện đại, minh bạch, linh hoạt và hội nhập, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giải pháp nào?
Cũng theo TS Nguyễn Công Phàn, để Nghị quyết số 66-NQ/TW thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước, cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp sau:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Hai là, đổi mới tư duy, định hướng xây dựng pháp luật theo hướng kiến tạo phát triển. Ba là, tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật. Bốn là, nâng cao hiệu quả hợp tác và hội nhập pháp luật quốc tế. Năm là, phát triển nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao, gắn với chuyển đổi số.
“Việc triển khai thành công Nghị quyết 66 vào cuộc sống không phải là một nhiệm vụ ngắn hạn mà là một quá trình liên tục, đòi hỏi sự chung tay của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thành công của Nghị quyết 66 sẽ không chỉ được đo lường bằng số lượng văn bản pháp luật được ban hành, mà còn bằng mức độ pháp luật thực sự đi vào đời sống, trở thành động lực cho sự sáng tạo và đổi mới, và củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” – Tiến sĩ Trần Công Phàn kết thúc phần tham luận tại Hội thảo.
PGS.TS. Trần Mai Ước (Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh): Cơ hội và thách thức cho TP Hồ Chí Minh
Liên hệ thực tế tại TP. Hồ Chí Minh, PGS.TS Trần Mai Ước cho rằng có cả Cơ hội lẫn đan xen khó khăn, thách thức. TS Ước trình bày rằng, TP. Hồ Chí Minh là địa phương lớn sau sáp nhập, có nhiều doanh nghiệp hoạt động cần nắm bắt nhanh, hiểu sâu sắc hơn về các chính sách, luật pháp liên quan đến hoạt động của mình. Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triểnói rằng, n đất nước trong kỷ nguyên mới được đánh giá “Đột phá của đột phá” về xây dựng và thi hành pháp luật.
Dù vậy, theo TS Trần Mai Ước thì là đầu tàu kinh tế, TP. Hồ Chí Minh thường xuyên đối mặt với những vấn đề mới mẻ của đô thị lớn, như quản lý kinh tế số, phát triển hạ tầng thông minh, hoặc những mô hình kinh doanh chưa có tiền lệ. Nếu không có tư duy lập pháp kiến tạo, các quy định sẽ trở thành rào cản. Ví dụ, việc thí điểm các mô hình xe công nghệ hay quản lý dịch vụ chia sẻ cần có cơ chế pháp lý linh hoạt để không kìm hãm sự phát triển của các mô hình kinh tế mới.
Để khái thác thuận lợi, khác phục khó khăn và thách thức, ông Ước đề xuất giải pháp áp dụng các phần mềm chuyên dụng để quản lý hồ sơ, kiểm tra thủ tục hành chính tại các sở, ban, ngành, cũng như việc công khai quy trình, thủ tục hành chính trên nền tảng số sẽ giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, giám sát, từ đó nâng cao tính minh bạch và công bằng trong quá trình thi hành pháp luật. Đội ngũ luật sư, chuyên gia pháp lý và các cơ sở đào tạo luật hàng đầu cả nước, theo TS Ước là lợi thế về nguồn nhân lực trí thức và hạ tầng giáo dục của TP Hồ Chí Minh.
“Là một đô thị lớn, việc xây dựng cơ chế giám sát thực thi pháp luật độc lập, minh bạch thông qua các kênh công nghệ sẽ giúp giảm thiểu tình trạng tham nhũng, tiêu cực và bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng cho các doanh nghiệp” – GS.TS Trần Mai Ước trình bày.
TS. Nguyễn Hà Thanh: Khuyến nghị nào cho Việt Nam?
Nêu dẫn chứng về liêm chính trong xây dựng chính sách, pháp luật một số quốc gia, TS Nguyễn Hà Thanh nêu một số khuyến nghị cho Việt Nam. Theo TS Thanh, Việt Nam có khá nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định về ứng xử, đạo đức, phòng ngừa xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ, như Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Công chức, Luật Viên chức, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân. Việt Nam cần một bộ quy tắc ứng xử, đạo đức cần bảo đảm các tiêu chí: rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu đối với tất cả các thành viên; đưa ra các hướng dẫn chi tiết và ví dụ cụ thể để phòng ngừa, xử lý các trường hợp xung đột lợi ích; bảo đảm cấu trúc của bộ quy tắc được thiết kế một cách logic xoay quanh một số giá trị cốt lõi; sử dụng các khái niệm một cách nhất quán; có tính liên kết, tham chiếu chéo đến các tài liệu và hướng dẫn khác;...
Cũng theo TS Thanh, Việt Nam có thể nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện các thiết chế bảo đảm đạo đức, liêm chính công vụ theo các hướng mỗi lĩnh vực có thể xây dựng một cơ quan về đạo đức công vụ, ví dụ, Quốc hội có thể giao cho một trong các ủy ban chuyên trách hiện nay thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực thi các quy tắc ứng xử, đạo đức trong công tác xây dựng pháp luật (bảo đảm chủ trương tinh gọn bộ máy) hoặc về lâu dài, có thể thành lập một ủy ban đạo đức để thực hiện nhiệm vụ này.
Đáng lưu ý là TS Thanh cho rằng phải tiếp tục rà soát, đề xuất giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật; bám sát thực tiễn, tập trung giải quyết những vấn đề đang cản trở phát triển, tháo gỡ các “điểm nghẽn” do quy định pháp luật; quán triệt, thực hiện nghiêm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 66-NQ/TW: “Xác định xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, thường xuyên của các Bộ, ngành Trung ương”.
Cuối tham luận, TS Thanh xác định Hội Luật gia Việt Nam là đầu mối quan trọng trong việc giới thiệu, huy động sự tham gia rộng rãi, thực chất của các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, các luật gia, luật sư giỏi, tâm huyết, có uy tín tham gia vào các ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật và các chương trình, đề án của Chính phủ và các bộ, ban, ngành nhằm góp phần nâng cao chất lượng của các chính sách, văn bản pháp luật và bảo đảm tính liêm chính, phòng ngừa tham nhũng, “lợi ích nhóm” trong quy trình xây dựng chính sách, pháp luật.
ThS. Nguyễn Đức Tính (Viện phó Viện Đào tạo và Nâng cao TP Hồ Chí Minh): Cần làm rõ pháp luật về đất đai
Đặt vấn đề đất đai luôn giữ vai trò là nguồn lực đặc biệt quan trọng, vừa là tư liệu sản xuất, vừa là nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đồng thời là yếu tố nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Ths Tính cho rằng, khi đặt trong yêu cầu thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, việc nhận diện rõ những điểm nghẽn, bất cập hiện nay càng trở nên cấp thiết. Chỉ khi giải quyết được những tồn tại này mới có thể phát huy tối đa vai trò đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với đất đai, bảo đảm công bằng giữa các chủ thể trong tiếp cận và khai thác nguồn lực đất đai, đồng thời khai thác hiệu quả hơn giá trị gia tăng từ đất, tạo động lực mới cho phát triển bền vững.
Ths Tính cho rằng bất cập và hoàn thiện pháp luật đất đai hiện nay theo hướng kiến tạo và phát triển. Pháp luật đất đai có vai trò đặc biệt trong việc quản lý và khai thác nguồn lực đất đai phục vụ phát triển. Nghị quyết số 66-NQ/TW đã nhấn mạnh yêu cầu “chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển”, mở ra định hướng hoàn thiện pháp luật đất đai theo hướng kiến tạo, ổn định và khuyến khích phát triển bền vững.
Ths Tiến cũng cho rằng, dù hệ thống pháp luật đất đai của nước ta đã có bước tiến quan trọng với việc ban hành Luật Đất đai năm 2024, song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cơ chế tài chính đất đai, định giá đất và chính sách thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Những hạn chế này không chỉ làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước mà còn ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh và việc khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển bền vững.
“Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đất đai theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị là nhiệm vụ cấp thiết, nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật kiến tạo, đồng bộ, minh bạch và công bằng” – Ths Sơn đúc kết.