
Ảnh minh họa
Hợp tác quốc tế về PCTN luôn bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác đối ngoại, một mặt thể hiện rõ thiện chí hợp tác và hội nhập, mặt khác luôn giữ vững lập trường chính trị, khẳng định độc lập và chủ quyền của Việt Nam, góp phần củng cố và nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về PCTN
Toàn cầu hoá đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế sâu rộng. Những yêu cầu đặt ra và kết quả hội nhập quốc tế là nền tảng để hợp tác quốc tế về phòng chống tham nhũng (PCTN).
Chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về PCTN được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ví dụ, 1 trong 10 chủ trương của Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN lãng phí năm 2006 là hợp tác quốc tế về PCTN: “Chủ động tham gia các chương trình, sáng kiến, diễn đàn quốc tế về PCTN phù hợp với điều kiện Việt Nam. Thực hiện các cam kết quốc tế về PCTN, chú trọng tới các cam kết về xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch.”.
Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/5/2012, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí là văn bản chỉ đạo mang tính định hướng đối với vấn đề PCTN trong nước.
Quan điểm của Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ) cũng đề ra “Đặt quá trình PCTN trong điều kiện hội nhập, chủ động hợp tác hiệu quả với các quốc gia, các tổ chức quốc tế; chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài trong công tác PCTN”.
Nghị quyết số 82/NQ-CP ngày 06/12/2012 về chương trình hành động thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí giai đoạn 2012-2016” có đưa ra các nhóm nhiệm vụ chủ yếu, trong đó có Hợp tác quốc tế, thu hồi tài sản, hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC).
Nghị quyết số 126/NQ- CP ngày 29/11/2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công tác PCTN đến năm 2020 có đề cập đến nhóm giải pháp số 8 về nội luật hóa các quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng phù hợp với điều kiện và pháp luật Việt Nam; mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật PCTN ra khu vực ngoài nhà nước và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong PCTN.
Chiến lược quốc gia PCTN, tiêu cực đến năm 2030 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 168/NQ-CP ngày 11 tháng 10 năm 2023 của Chính phủ) chỉ rõ quan điểm, mục tiêu, giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế trong PCTNTC trong thời gian tới như sau: (i) Về quan điểm: Tích cực, chủ động hợp tác quốc tế và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tốt về PCTN; (ii) Về mục tiêu: Tăng cường hợp tác quốc tế trong PCTN gắn với thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng; (iii) Về giải pháp: Tích cực tham gia, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về PCTN, thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, cụ thể: Tăng cường nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về PCTN, nhất là trong phối hợp, chia sẻ thông tin, thực hiện các biện pháp ngăn chặn nhằm thu hồi tài sản bị tẩu tán hoặc truy bắt tội phạm tham nhũng bỏ trốn ra nước ngoài; ký kết mới điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế hoặc tham gia các khuôn khổ hợp tác quốc tế khác có liên quan nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Việt Nam trong PCTN, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về tố tụng tư pháp, tương trợ tư pháp đáp ứng các yêu cầu trong giải quyết các vụ việc, vụ án tham nhũng có yếu tố nước ngoài; Nâng cao hiệu quả thực thi UNCAC và sự tham gia của Việt Nam vào các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ UNCAC theo hướng tích cực, chủ động, thực chất, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Việt Nam trong PCTN; Thúc đẩy hợp tác kỹ thuật, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về PCTN với các đối tác, tổ chức quốc tế; nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về PCTN phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Kết quả hợp tác quốc tế về PCTN trong thời gian qua
Trong những năm qua, kết quả hợp tác quốc tế trong PCTN đã mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích, thu được nhiều kinh nghiệm, thực tiễn tốt của các quốc gia trên thế giới về PCTN, từ đó nghiên cứu, áp dụng phù hợp vào công tác PCTN của Việt Nam.
Bên cạnh đó, những nỗ lực của Việt Nam trong PCTN cũng đã được lan tỏa, góp phần tăng cường hình ảnh, vai trò của Việt Nam trong hợp tác về PCTN. Việc tham gia vào các thỏa thuận, điều ước, cam kết quốc tế đa phương về PCTN, nhất là Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng - một văn kiện pháp lý mang tính nền tảng, có tính ràng buộc với các quốc gia thành viên ở phạm vi toàn cầu về PCTN đã giúp Việt Nam nắm bắt được những vấn đề, giải pháp cơ bản, cốt lõi và tiên tiến trong PCTN, nắm bắt được xu hướng hợp tác của khu vực và thế giới về PCTN, cùng tham gia giải quyết một vấn nạn chung của thế giới và khu vực, góp phần củng cố, tăng cường hòa bình, hữu nghị và phát triển chung trên toàn thế giới.
Thời gian vừa qua, Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia và thực hiện nhiều hoạt động hợp tác, bao gồm cả đa phương và song phương. Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao đã ký 17 Thỏa thuận hợp tác, hàng năm triển khai các hoạt động hợp tác song phương với Viện Kiểm sát, Viện Công tố, Cơ quan thực thi pháp luật của các quốc gia có nền công tố mạnh, có hệ thống Tư pháp phát triển như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a; Hung-ga-ri, Nga, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đức; Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác song phương với hàng chục các cơ quan kiểm toán tối cao trên thế giới và tổ chức quốc tế tại Việt Nam; Thanh tra Bộ Công thương Việt Nam và Cục Kiểm toán Thanh tra Bộ Kinh tế và Trí thức Hàn Quốc (nay là Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc) đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác PCTN các năm 2010 và 2013; Công an các tỉnh biên giới như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang thiết lập cơ chế hợp tác thực thi pháp luật, trong đó có hợp tác quốc tế trong phát hiện, xử lý tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng với các tỉnh chung đường biên giới của Lào, Campuchia, Trung Quốc.
Với các quốc gia, các tổ chức quốc tế, hợp tác trong việc ký kết các hiệp định, hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin nhằm nâng cao hiệu quả công tác PCTN. Trong Chu trình đánh giá thứ nhất, Việt Nam đã chia sẻ kinh nghiệm về tổ chức xây dựng Báo cáo tự đánh giá quốc gia với các nước, cử chuyên gia hướng dẫn Cam-pu-chia tổ chức tự đánh giá việc thực thi UNCAC và là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất việc chuẩn bị báo cáo tự đánh giá và hoàn tất các hoạt động đánh giá. Bản tóm tắt và bản đầy đủ của Báo cáo tự đánh giá quốc gia về thực thi UNCAC của Việt Nam đã được đăng tải toàn văn trên Cổng thông tin điện tử của Văn phòng Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm (UNODC). Cụ thể, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế liên quan đến PCTN: Các cơ quan đại diện của Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các cơ quan PCTN quốc tế (IAACA); Hiệp hội công tố viên quốc tế (IAP); Mạng lưới liên cơ quan thu hồi tài sản khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (ARIN-AP); Mạng lưới các cơ quan tư pháp khu vực Đông Nam Á (SEA Just)…; ký kết các hiệp định về dẫn độ, tương trợ tư pháp, phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Việt Nam đã ký kết các điều khoản quốc tế liên quan đến PCTN, cụ thể: 24 hiệp định dẫn độ, 26 hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự đang có hiệu lực, 15 hiệp định về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và 18 hiệp định về hợp tác phòng, chống tội phạm; bên cạnh đó Việt Nam tham gia xây dựng Hiệp định ASEAN về dẫn độ. Việt Nam đã gửi 68 yêu cầu dẫn độ đi các nước, trong đó có 03 yêu cầu dẫn độ liên quan đến tội phạm tham nhũng.; Việt Nam đã ký 09 Biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin về rửa tiền, tài trợ khủng bố với Đơn vị tình báo tài chính nước ngoài. Từ khi Việt Nam gia nhập UNCAC, Bộ Ngoại giao đã tham gia góp ý việc đàm phán, ký kết 11 thỏa thuận quốc tế về PCTN.... Đồng thời, Việt Nam đã cử chuyên gia tham gia hầu hết các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác về PCTN. Trong khuôn khổ thực thi UNCAC, Việt Nam đã tham gia Hội nghị các quốc gia thành viên (CoSP) và cuộc họp của các nhóm công tác (Nhóm công tác về phòng ngừa; Nhóm công tác về đánh giá; Nhóm công tác về hợp tác quốc tế và Nhóm công tác về thu hồi tài sản); Tham gia Nhóm công tác về Chống tham nhũng và Đảm bảo minh bạch của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC); Tham gia các diễn đàn cảnh sát song phương và đa phương, nhất là INTERPOL, ASEANPOL….
Bên cạnh đó, Việt Nam luôn thể hiện là quốc gia thành viên có trách nhiệm khi đã chủ trì tổ chức thành công nhiều sự kiện, diễn đàn quốc tế về PCTN: Như các hoạt động trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD, Nhóm các cơ quan PCTN ASEAN (ASEAN- PAC).... Tại các sự kiện này, Việt Nam đã thể hiện quan điểm và có đóng góp hiệu quả vào những nỗ lực chung về PCTN, chia sẻ kinh nghiệm về hoàn thiện chính sách, pháp luật và các biện pháp nâng cao nhận thức của người dân, xã hội, trong PCTN.
Đáng chú ý trong số 33 yêu cầu tương trợ, Việt Nam đã có 07 yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự liên quan đến tội phạm tham nhũng gửi các nước đề nghị thu hồi, trả lại tài sản tham nhũng cho Nhà nước Việt Nam. Đề nghị phía nước ngoài hỗ trợ điều tra, xử lý 02 vụ việc qua kênh INTERPOL (01 vụ đã kết thúc, đó là vụ án “Đưa hối lộ” tại Công ty Việt Tín, phối hợp với cảnh sát Singapore; 01 vụ vẫn đang tiếp tục phối hợp xử lý, đó là vụ việc “Đưa hối lộ” tại Công ty Tenna, đang phối hợp với Cảnh sát Nhật Bản); Phối hợp với Tổng Chưởng lý Singapore trong điều tra, xử lý vụ án “Tham ô tài sản” liên quan đến Dương Chí Dũng và vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” liên quan đến Phan Văn Anh Vũ. Ngoài ra, kể từ khi hoàn thành chu trình đánh giá thứ nhất đối với Báo cáo quốc gia thực thi UNCAC của Việt Nam (năm 2012), Việt Nam đã gửi 03 yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự cho nước ngoài đề nghị thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến các vụ án tham nhũng xuyên quốc gia, Cụ thể: Yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự liên quan đến Vụ án “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Tổng Công ty hàng hải Việt Nam” năm 2012 (vụ Vinalines); Vụ án “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam” năm 2014 (vụ Vinashin); Vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Tổng công ty đường sắt Việt Nam” năm 2015 (vụ JTC). Trong quá trình điều tra, xét xử, các cơ quan có thẩm quyền của các nước liên quan đã phối hợp chặt chẽ, tích cực với các cơ quan của Việt Nam, phản ánh kết quả tốt đẹp về hợp tác quốc tế trong PCTN giữa Việt Nam và nước ngoài: Việt Nam đã ký 09 Biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin về rửa tiền, tài trợ khủng bố với Đơn vị tình báo tài chính nước ngoài. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang tiếp tục đàm phán, ký kết thoả thuận hợp tác với Đài Loan (Trung Quốc), Vương Quốc Anh, Singapore, Úc.
Hợp tác quốc tế về PCTN luôn bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác đối ngoại, một mặt thể hiện rõ thiện chí hợp tác và hội nhập, mặt khác luôn giữ vững lập trường chính trị, khẳng định độc lập và chủ quyền của Việt Nam, góp phần củng cố và nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Việt Nam - Pháp ký kết nâng cấp bản ghi nhớ hợp tác về PCTN trong năm 2024 (nguồn ảnh: thanhtravietnam.vn)
Một số vấn đề đặt ra trong hợp tác quốc tế về PCTN
1. Mức độ tương thích, phù hợp giữa pháp luật Việt Nam, điều kiện kinh tế - xã hội với các quy định của pháp luật quốc tế
Điều kiện kinh tế - xã hội và mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam là yếu tố quyết định đến việc thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế cụ thể. Ví dụ, khi phê chuẩn UNCAC, theo Quyết định số 950/2009/QĐ-CTN ngày 30/6/2009, Việt Nam bảo lưu khoản 2 Điều 66 về cơ chế giải quyết tranh chấp trong giải thích hoặc áp dụng UNCAC và Tuyên bố không bị ràng buộc bởi các quy định về hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20, UNCAC) và quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân (Điều 26, UNCAC); đồng thời, Việt Nam cũng tuyên bố không áp dụng trực tiếp các quy định của UNCAC và không coi UNCAC là cơ sở pháp lý trực tiếp về dẫn độ. Việc đưa ra các tuyên bố bảo lưu hoặc không bị ràng buộc bởi một số quy định của UNCAC là xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự phù hợp với các nguyên tắc căn bản của Hiến pháp, pháp luật quốc gia, cũng như xuất phát từ những đặc thù về thể chế chính trị, kinh tế - xã hội trong nước.
Như đã đề cập, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam tập trung vào ba trụ cột chính, hai trong số đó là: (i) Đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, bản sắc dân tộc; (ii) Đảm bảo sự thống nhất, ổn định của hệ thống chính trị. Có thể hiểu rằng tiến trình hội nhập nói chung trên mọi lĩnh vực cần phải được thực hiện với nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến những vấn đề cốt yếu mang tính quốc gia – dân tộc như: chủ quyền, chính trị, an ninh, văn hóa và những giá trị truyền thống khác…
Lịch sử đã ghi nhận Việt Nam luôn chủ trương xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm. Nhà nước Việt Nam được tổ chức trên cơ sở bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Theo đó, tất cả các lĩnh vực đều phải được thể chế hóa và điều chỉnh bởi các quy định pháp luật.
Cho đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về PCTN. Những văn bản này đã có tác dụng tích cực trong thực tiễn công tác PCTN. Tuy nhiên, hệ thống chính sách, pháp luật Việt Nam vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đảm bảo được tính chiến lược, toàn diện, đồng bộ, kịp thời, chưa tiếp cận và đáp ứng với yêu cầu của đấu tranh PCTN, tính ổn định và dự báo chưa cao. Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân như: năng lực hoạch định chính sách và xây dựng thể chế về PCTN của các cơ quan có thẩm quyền chưa đáp ứng được yêu cầu; Lực lượng cán bộ của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật về PCTN chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng, trình độ và tính chất chuyên sâu; Công tác xây dựng pháp luật còn dàn trải, thiếu điều phối, trong khi đặc thù của pháp luật PCTN là rất rộng, liên quan tới nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ.
2. Hợp tác quốc tế trong PCTN đi kèm với nhiều nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam phải thực hiện
Đó là cải cách thể chế pháp luật quốc gia. Nhiệm vụ này đặt ra những thách thức không nhỏ. Chỉ riêng việc chính thức trở thành thành viên của UNCAC đã kéo theo hàng loạt các hoạt động: xây dựng chiến lược, chính sách, chương trình hành động chống tham nhũng, nội luật hóa các quy định của Công ước, nghiên cứu bổ sung, thể chế hóa các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, hình sự hóa các hành vi tham nhũng theo yêu cầu của Công ước; xây dựng, đàm phán và ký kết các hiệp định song phương, đa phương về dẫn độ, tương trợ pháp lý, hợp tác thực thi pháp luật, kiểm soát và thu hồi tài sản…
Khả năng tương thích, phù hợp giữa pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật quốc tế là yếu tố quyết định phần lớn hiệu quả của hợp tác quốc tế trong PCTN, đặc biệt đối với các hoạt động hợp tác ở tầm vĩ mô và quan trọng như việc tham gia Công ước. Theo Báo cáo tổng kết Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện UNCAC của Chính phủ, Việt Nam đã ban hành, tuân thủ và thực hiện đầy đủ 217/240 yêu cầu của Công ước; đã ban hành, tuân thủ và thực hiện nhưng chưa đầy đủ 18/240 yêu cầu và chỉ còn 5/240 yêu cầu của Công ước chưa được ban hành và chưa thực hiện.
Để thực thi UNCAC tốt hơn cũng như tham gia tích cực và chủ động hơn vào các chương trình hợp tác quốc tế về PCTN, tăng cường tổng thể và toàn diện năng lực xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng ngày càng phù hợp với các quy định, quy chuẩn quốc tế về PCTN là nhiệm vụ quan trọng cần được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đặc biệt quan tâm thực hiện./.
Đào Trung Kiên (Cục Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực Thanh tra Chính phủ)
Theo Phaply.net