Vanvn- Nhà thơ Nguyễn Hoài Nhơn sinh năm 1956, quê quán Quảng Bình. Năm 1974, ông nhập ngũ vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Đến năm 1981, ông thi đỗ Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh. Sau khi tốt nghiệp, ông về Vũng Tàu công tác tại Hội VHNT Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997 mới về Vĩnh Cửu, Đồng Nai làm nông dân. Song Nguyễn Hoài Nhơn vẫn miệt mài làm thơ, và đã có nhiều giải thưởng thơ trong và ngoài tỉnh Đồng Nai.
Nguyễn Hoài Nhơn đã xuất bản 11 tập sách, trong đó có 6 tập bút ký và 5 tập thơ: “Trên những nẻo đường chiến tranh” (3 tập – ký), “Hồi ức chiến tranh” (ký), “Những chặng đường đánh Mỹ” (thơ); Nói về cuộc sống muôn màu “Nhật ký tìm trầm” (ký), “Phù du trần thế” (thơ); Nói về quê hương đất nước tươi đẹp “Câu hát quê nhà” (thơ), “Tự biết” (thơ), “Nắng và mưa” (thơ).
Những tập sách của ông nói về đời lính trong chiến tranh, nỗi vất vả của người nông dân, và nỗi đau đời của một tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu cái đẹp. Tập “Định vị… thơ” vừa được trao Giải C Giải thưởng VHNT Trịnh Hoài Đức lần thứ V (2016 – 2020) của tỉnh Đồng Nai.
Vanvn.vn trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ của tác giả Nguyễn Hoài Nhơn.
MỘT NỬA
Lẽ nào dang dở cuộc chơi
Nửa li rượu chát, nửa hơi điếu cày
Nửa sương, nửa gió, nửa cây
Nửa tình yêu gửi vào mây suối nguồn
Nửa phần dại, nửa phần khôn
Nửa thân Cha gửi, nửa hồn Mẹ cho
Nửa tro bụi rắc ao hồ
Nửa dòng sông dạt, nửa bờ bãi xô
Nửa chân vạc, nửa chân cò
Nửa chiều hôm, nửa lò dò bóng mai
Nửa vồi vội, nửa khoan thai
Nửa thiên niên kỉ rộng, dài, vòng vo…
Nửa mừng hụt, nửa âu lo
Vợ làm hoa hậu nửa giờ đã gay
Bên kia nửa trái đất quay
Tôi còn một nửa bên này – bóng đêm.
MẢNH VƯỜN CỦA MẸ
Con về thăm mảnh vườn của mẹ
Chào mào kêu, trái sắp chín mẹ ơi
Hơn nửa đời còng lưng cuốc, xới
Cây xòe ô rợp mát chỗ con ngồi
Lối vào vườn nhiều gai xấu hổ
Bò ngổn ngang xoắn chặt gốc cây
Mẹ lần gỡ tay chân xơ, tướp
Ngọn gió Lào thổi thốc lá khô bay
Mỗi lần đi xa con sợ quê mình lắm bão
Rặng núi trước nhà có che chắn nổi đâu
Dòng sông Gianh dữ dằn mùa nước lũ
Trái trên cành bùn lấm trắng phau
Mùa trái chín, mẹ làm sao hái được
Cây dần cao, mẹ thấp bé dáng người
Mẹ nheo mắt, nhón chân, lựa chỗ
Chiếc sào tre vít vổng, chơi vơi…
Thời gian điểm sắc màu cho quả
Nhớ thương con, mẹ chọn vị, chọn mùi
Ba mươi tuổi con vẫn như đứa trẻ
Hau háu nhìn chùm trái ngọt lịm môi
Con chẳng thể là chim nhớ mùa bay về sớm
Chít, chít, chiu… mổ quả bói trong vườn
Nỡ nào mẹ lại xua lại đuổi
Để lòng mình thêm trống trải, cô đơn
Tóc mẹ bạc cho cây xanh trĩu trái
Tấm thân gầy che bão gió, nắng nôi
Con hạnh phúc được làm người trèo hái
Chút ngọt ngào xin dâng mẹ, mẹ ơi!
VỀ NGUỒN
Lại về với suối nguồn trôi
Nghe con sông chảy, nghe thời gian đi
Ta nghe năm tháng nói gì
Mà lòng thắc thỏm những khi lên ngàn
Tiếng ve rối ruột rừng hoang
Chiến khu xưa trở nên khang khác nhiều
Vẫn còn quá đỗi mến yêu
Vẫn còn nhung nhớ những chiều mưa xanh
Qua rồi bao cuộc chiến tranh
Về đây hát khúc quân hành bạn ơi
Mã Đà vang chiến một thời
Bom gầm, đạn xới rừng tơi tả rừng
Chia tay lòng mãi rưng rưng
Nửa thương núi cũ, nửa mừng đổi thay.
MIỀN TÂY
(Tặng bạn thơ Đông Triều)
Miền Tây – chốn ấy miền Tây
Mênh mang đồng nước, cỏ cây, hương tràm
Kinh xẻ dọc, sông xẻ ngang
Tôi xuôi theo miệt Long Giang gặp người
Thuở khai thiên, chúa Nguyễn ơi
Đất phương Nam đã đến hồi phát sinh
Ở đâu cũng nước non mình
Dấu xưa còn đó, ảnh hình còn đây
Theo em về xứ cầu cây
Sáo sang sông, sáo lạc bầy gọi nhau
Theo em về mạn trâm bầu
Nghe cù lao gió dậy mầu bùn thơm
Theo em mùa trái chín đơm
Xuồng ghe khẳm mái,
chèo mơn mạn chèo
Đôi bờ câu lý buông reo
Bóng người xưa
đổ bóng theo đước, tràm
Thơ tôi trôi dạt phương Nam
Bạn đầu chót đất biết làm sao đi
Lấy sông làm xứ kinh kỳ
Lấy thơ làm một chút tri âm đời
Vọng nhau qua ngõ gió trôi
Mà nghe thấu tận miệt trời miền Tây.
EM LÀ CỦA QUÊ HƯƠNG
Lời ru trong tiếng thơ xưa
Vàng như mật nắng thu vừa đẩy lên
Đáy lòng dâng một tiếng em
Niềm cay đắng cũ nghẹn trên môi cười
Em là giọt nhớ gọi tôi
Câu thơ nhen ấm nỗi đời gió sương
Một lời thương, nửa lời thương
Vọng xa từ những vấn vương quê nghèo
Anh đi chẳng đủ mang theo
Câu ru thiếu phụ, đò neo bến nào
Em là quê hương đó sao
Thơ như sông máu chảy vào mạch tim
Một đời anh mãi đi tìm
Biết là tăm cá, bóng chim, biết là…
VỀ VỚI MẸ
Con về bên mẹ, mẹ ơi!
Nấm đất nâu với một trời mộ bia
Âm – Dương là thế này, kia
Hình như mẹ có ngoái về nhắc con
Thân gầy guộc, dáng còm nhom
Làm sao đếm được hao mòn mẹ ơi
Đời như núi sụt sông trôi
Bấc đèn cạn sáng, ngày vơi vợi buồn
Con quỳ cúi trước hoàng hôn
Văn từng hột cát vuông tròn mà đau
Mẹ ơi! Mẹ bỏ đi đâu
Thông xanh giấu bóng đất nâu mẹ về.
ĐÊM CỒNG CHIÊNG
(Tặng Hà Hữu Nết)
Đất nén thở còn đêm thì quánh lại
Bật vỡ không gian theo nhịp chiêng cồng
Những gương mặt dẻ nâu ẩn trong huyền thoại
Langbiang đêm ấy cũng lên đồng
Ngọn đuốc thắp cháy bao điều bí ẩn
Hú gọi tổ tiên xa khuất đỉnh trời
Hạt lúa trên nương, rượu cần trong ché
Cũng khôn thiêng quỳ khấn lạy – Giàng ơi!
Mưa giấu nắng trong vỉa rừng trơ khấc đá
Ngùn ngụt thông reo, nghi ngút khói sương mờ
Vạn cánh tay trần giơ lên vạm vỡ
Cùng đôi chân thiếu nữ nhẹ nhàng đưa…
Tôi lắng tiếng hồn mình trong mầu bazan khát
Hừng hực lửa nung vạn thuở chưa tàn
Ngực đồi nhú măng, mắt hường thổ cẩm
Chín bậc nhà rông nhúc nhích vệt trăng loang
Đất nứt vỡ lành thương phún thạch
Phía trời Tây trăng ló cuối ngàn thông
Từ giã làng buôn tôi về châu thổ
Trong điệu gõ Tơ-rưng, num núm tiếng chiêng cồng.
NGHỆ NHÂN KHẮC GỖ
Những khúc gỗ vô tri hóa thằng người
Biết hờn giận, khóc, cười, đau đớn…
Quá khứ sâu xa giàu lên qua tưởng tượng
Cùng nhập thân dung dị, tươi ngời
Cứ ngỡ như tất cả bị đánh rơi
Tất cả chìm vào quên lãng
Tượng Phật nghìn tay chơi vơi, câm lặng
Lại lóe lên nghìn tia sáng diệu kỳ
Tiếng đàn kiều nức nở lâm li
Trống cơm vỗ bập bùng nhịp phách
Thiếu nữ chao chân trăng vàng bát ngát
Cánh cò đậu luỹ tre xanh
Nét dân gian tạo dáng bức tranh
Dưới bàn tay tinh xảo
Những tượng Phật chùa Tây Phương không lẫn trong sắc áo
Lẫn vào muôn vẻ cuộc đời…
Những âm thanh chạm khắc vào tôi
Bền bỉ tháng năm dồn lại
Nét tinh tuý được kế thừa, gặt hái
Thời gian ơi – người chẳng cũ bao giờ.