Pháp luật về định giá tài sản trí tuệ: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị

Việt Nam đã và đang tập trung hình thành các thiết chế pháp lý, thúc đẩy định giá tài sản trí tuệ trong một số lĩnh vực của đời sống dân sự và hoạt động doanh nghiệp, tuy nhiên, thực tế áp dụng gặp phải trở ngại khi các quy phạm, chuẩn mực, phương thức cùng điều kiện khách quan chưa thực sự đáp ứng phù hợp, cấp thiết đặt ra yêu cầu nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp cũng như sớm hoàn thiện thể chế pháp luật.

Sự vận hành của nền kinh tế tri thức đã khai phóng tiềm năng, đưa những sản phẩm vốn nguyên bản là kết quả sáng tạo vô hình trở nên có giá trị. Bối cảnh hiện nay, vai trò tài sản trí tuệ thậm chí còn mang nhiều ý nghĩa to lớn hơn bởi sự tồn tại của nó tạo ra ưu thế cạnh tranh, góp phần quyết định thành công, thành quả nỗ lực, biểu trưng cho vị thế và độ nhận diện doanh nghiệp trên thương trường. Xuyên suốt “vòng đời” tồn tại, bản thân tài sản trí tuệ cũng có khả năng phát sinh lợi nhuận, lượng hóa được bằng tiền.

1-1747648950.jpg

Ảnh minh họa

I. Những vấn đề chung về tài sản trí tuệ và định giá tài sản trí tuệ

Thực trạng hiện nay, mặc dù chưa tồn tại quy định trực tiếp mang tính mô tả, định nghĩa hoặc lý giải thuật ngữ “tài sản trí tuệ” trong các văn bản luật nhưng thông qua nhận diện về bản chất, kết hợp cùng các đặc điểm riêng được phản ánh, nhìn chung có thể thấy: “Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình thuộc sở hữu hợp pháp, hình thành từ tư duy sáng tạo của con người, định giá được bằng tiền và có khả năng mang lại ưu thế cho chủ sở hữu”.Dưới cách thức tiếp cận như vậy, tài sản trí tuệ nổi bật bởi một số đặc điểm:

Không có hình thái vật chất nhưng có khả năng nhận biết. Tài sản trí tuệ tồn tại chủ yếu dưới dạng thông tin và nhận biết ý thức, tương tác loại tài sản này phải dựa trên các đối tượng, cấu trúc, vật thể hữu hình đóng vai trò chứa đựng hoặc biểu thị, ví dụ như kết cấu hình dáng sản phẩm, khẩu hiệu, biểu tượng kinh doanh, nhãn hiệu gắn trên hàng hoá.

Bảo đảm về mặt pháp lý. Yếu tố pháp lý là điều kiện cơ bản, cần thiết, chứng tỏ sự tồn tại của tài sản phù hợp quy định hiện hành, đồng thời, việc xác lập quyền dân sự, quyền tài sản của chủ sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp các bên tham gia giao dịch tài sản được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Để tài sản trí tuệ “chính danh, định phận” góp mặt vào lĩnh vực dân sự, kinh tế, tài chính, doanh nghiệp,... nhất thiết đòi hỏi đối tượng tài sản đó phải có sơ sở pháp lý ghi nhận hoặc công nhận, điều chỉnh, xác định và bảo hộ.

Giá trị của tài sản trí tuệ có thể định lượng, tạo ra ưu thế cho chủ sở hữu. Nếu đơn giản nhìn từ khía cạnh một loại sản phẩm, hàng hóa thuần túy tạo thành từ vận động tư duy, kết tinh cho thành quả sáng tạo thì dễ thấy tài sản trí tuệ hoàn toàn có khả năng định giá được bằng tiền thông qua định lượng chi phí kiến tạo, thu nhập mang lại hay mức giá mà thị trường sẵn sàng chi trả.

Mỗi đặc điểm của tài sản trí tuệ đan kết vào nhau tạo thành mối liên hệ mật thiết, khi phần lớn giá trị khai thác của tài sản trí tuệ xuất phát từ chuyển giao, thừa nhận hoặc công nhận nhờ bảo đảm pháp lý. Doanh nghiệp, chủ sở hữu tài sản trí tuệ có quyền trực tiếp khai thác, nhượng quyền sử dụng, góp vốn hoặc tiến hành hoạt động khác trong khuôn khổ luật định nhằm đạt mục đích kinh tế. Vì quyền nhân thân không thể chuyển giao, đối tượng định giá lúc này là các quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ.

Tài sản trí tuệ có tính hao mòn vô hình. Thừa hưởng bản chất của tài sản vô hình, tính hao mòn hữu hình thể hiện ở hao mòn về mặt giá trị tài sản. Ngay trong thời kỳ mà một loại tài sản trí tuệ ra đời thì đời sống con người vẫn luôn chuyển dịch, tịnh tiến và phát triển. Chính vì vậy, dưới áp lực đổi mới khoa học, công nghệ, kỹ thuật thì tài sản trí tuệ có thể được định giá cao tại một thời điểm nhưng suy giảm giá trị vào thời gian sau đó.

Những vấn đề tất yếu, khách quan làm nổi bật tầm quan trọng của hoạt động định giá, quá trình này nhằm xác định giá trị bằng tiền và đưa ra giá cả một loại tài sản trí tuệ tại một thời điểm xác định làm cơ sở phục vụ giao dịch, hoạt động liên quan. Dưới phương diện pháp luật lẫn thực tiễn, thiết chế định giá vững chắc không chỉ loại bỏ yếu tố bất lợi, gia tăng tính chính xác, độ tin cậy của kết quả mà đồng thời còn cải thiện nhận thức, khuyến khích đầu tư, bảo vệ, duy trì ổn định thị trường, thúc đẩy lưu thông và tăng khả năng thanh khoản.

2-1747648966.jpg

Ảnh minh họa

Đóng góp vào vận hành doanh nghiệp, tài sản trí tuệ đã có thời gian hiện hữu, trở thành một bộ phận trong cơ cấu tài sản, việc định giá đúng và đủ giúp doanh nghiệp xây dựng cơ chế quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả, đồng thời hoạch định chiến lược phát triển lâu dài. Trường hợp chủ sở hữu tài sản trí tuệ tiến hành chuyển giao hoặc chuyển quyền sử dụng, kết quả định giá là cơ sở đàm phán về chi phí, giá cả, xác định quyền và nghĩa vụ phù hợp tính chất, rủi ro. Phạm vi hoạt động tố tụng, định giá tài sản còn được thực hiện nhằm xác định mức độ tác động của hành vi, hậu quả, trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

II. Một số hạn chế pháp lý về định giá tài sản trí tuệ

Sau thời điểm Việt Nam mở cửa nền kinh tế, thay đổi chính sách pháp luật mang lại không ít chuyển biến tích cực, rõ nét, thuận lợi để tài sản trí tuệ có điều kiện phát triển. Nghiên cứu chỉ ra vào những năm 1980, nếu như giá trị tài sản vô hình thường chiếm 20%, tài sản hữu hình là 80% thì tại năm 2017 con số này ngược lại, tài sản vô hình của doanh nghiệp, trong đó giá trị thương hiệu có thể chiếm trên 73% [1].

Mặc dù vậy, phải thừa nhận rằng ý thức, những ghi nhận vai trò, tổ chức, quản lý và định giá tài sản trí tuệ ở các doanh nghiệp còn chưa được chú trọng đúng mức. Kết quả khảo sát do Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành năm 2019 thống kê trong 3.690 doanh nghiệp tham gia khảo sát thì chỉ có 83 doanh nghiệp (tỷ lệ 2,25%) ban hành quy chế quản lý tài sản trí tuệ và 31 doanh nghiệp (tỷ lệ 0,66%) hạch toán các tài sản trí tuệ vào giá trị tài sản cố định vô hình trên bảng cân đối kế toán [2]. Mặt khác, sự điều chỉnh của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dù phần nào cải thiện, khắc phục một số tồn tại tạm thời, “mở đường” tiến hành hoạt động định giá nhưng căn cơ chưa giải quyết toàn diện, tối ưu và triệt để, chưa đáp ứng trọn vẹn nhu cầu, trong đó có cả những vấn đề cốt lõi, quan trọng.

Một là, thuật ngữ thiếu chuẩn xác, không thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Trong công tác kế toán, tài sản trí tuệ xếp vào nhóm tài sản cố định vô hình, quy trình hạch toán sổ sách kế toán căn cứ Chuẩn mực số 04 ban hành, công bố theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Văn bản ra đời trước khi Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 phát sinh hiệu lực, nhận thức tài sản trí tuệ thời kỳ này tương đối giản lược, giới hạn trong sáng chế, quyền tác giả và nhãn hiệu. Tính đến hiện tại, văn bản trên vẫn còn giá trị hiệu lực nên các thiết lập như vậy đang được áp dụng, bó hẹp phạm vi không tránh khỏi đánh giá thiếu toàn diện năng lực doanh nghiệp. Đồng thời, Chuẩn mực kế toán số 04 liệt kê bằng sáng chế là tài sản cố định vô hình, điều này không phù hợp bản chất giá trị của tài sản. Khác với sáng chế thì thuật ngữ “bằng sáng chế” hay “bằng độc quyền sáng chế” là văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở hữu trí tuệ) cấp cho tổ chức, cá nhân nhằm xác lập quyền sở hữu công nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định. Văn bằng này chỉ có tác dụng định danh chủ sở hữu mà không mang bất kỳ ý nghĩa kinh tế nào. Bên cạnh đó, nếu kiên định nguyên tắc chỉ những loại tài sản trí tuệ nào được pháp luật thừa nhận hoặc công nhận tính hợp pháp mới xem là tài sản cố định vô hình thì “phần mềm máy vi tính” làm nảy sinh khúc mắc, bởi Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) không tồn tại điều khoản quy định mà chỉ có “chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu” là đối tượng bảo hộ.

3-1747648966.jpg

Ảnh minh họa

Dẫn chiếu Thông tư số 45/2013/TT-BTC Hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định cho thấy phạm vi, nội dung thể hiện trong văn bản có phần bao quát hơn, mở rộng tài sản cố định vô hình bằng cách liệt kê gần như toàn bộ đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, Thông tư số 45/2013/TT-BTC mô tả tài sản cố định vô hình ngoài quyền sử dụng đất còn đề cập đến “quyền phát hành, bằng sáng chế phát minh, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sản phẩm, kết quả của cuộc biểu diễn nghệ thuật, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng và vật liệu nhân giống” [3].

Quản lý, trích khấu hao tài sản trí tuệ thực hiện trên cơ sở nguyên giá tài sản cố định trừ đi số hao mòn luỹ kế. Thời gian trích khấu hao quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, quyền đối với giống cây trồng là thời hạn bảo hộ được ghi trên văn bằng bảo hộ (không tính thời hạn bảo hộ được gia hạn thêm) [4]. Dù vậy, phân tích, đối sánh thuật ngữ sử dụng trong Thông tư số 45/2013/TT-BTC cũng bộc lộ điểm bất hợp lý, không nhất quán pháp luật chuyên ngành. Điển hình, nếu bảo lưu quan điểm bằng phát minh là tài sản cố định vô hình sẽ không thống nhất với Luật Sở hữu trí tuệ do phát minh không thuộc điều chỉnh và cũng không được xem là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, phân loại chỉ dẫn địa lý là tài sản của doanh nghiệp mâu thuẫn khi “chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước” [5] mà không riêng biệt, tư nhân hóa quyền sở hữu. Qua hai lần sửa đổi bởi Thông tư 147/2016/TT-BTC, Thông tư 28/2017/TT-BTC thì những nội dung như vậy vẫn chưa tinh chỉnh. Nhập nhằng trong hệ thống pháp luật vô hình trung thiết lập rào cản bất lợi, gây khó khăn, lúng túng cho chính doanh nghiệp, chủ sở hữu và cơ quan quản lý nhà nước.

Hai là, thiếu vắng cơ chế kiểm tra, hậu kiểm định giá tài sản trí tuệ khi góp vốn vào doanh nghiệp. Tiếp nối tinh thần các văn bản tiền nhiệm, Luật Doanh nghiệp năm 2020 cho phép cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp sử dụng tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ [6]. Ngoài ra, cổ phần, trái phiếu của công ty cổ phần cũng có thể được mua bằng quyền sở hữu trí tuệ [7]. Trên nguyên tắc tự do ý chí, việc định giá do thành viên, bộ phận chuyên trách trong doanh nghiệp tiến hành hoặc thông qua tổ chức thẩm định giá.

Không thể phủ nhận đằng sau “cánh cửa” này, pháp luật doanh nghiệp mở rộng thanh khoản đối với tài sản trí tuệ, thúc đẩy nhận thức về vai trò và tính đa dạng hoá, khơi thông nguồn lực, tạo thuận lợi cho quá trình thành lập cũng như phát triển doanh nghiệp. Nhưng có chăng để đảm bảo quyền và lợi ích chung, tiến đến mục tiêu phát triển doanh nghiệp bền vững thì vấn đề kiểm tra, hậu kiểm, nhất là ở khâu định giá cần được quan tâm, cân nhắc hơn nữa.

4-1747648966.jpg

Ảnh minh họa

Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2020, tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc vàng thì phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức thẩm định giá định giá và thể hiện thành Đồng Việt Nam [8]. Giả định trường hợp thành viên, cổ đông công ty định giá tài sản trí tuệ mà không dựa trên bất cứ tiêu chí khoa học hay đối chiếu thị trường nào, yếu và thiếu chuyên môn, hạn chế nghiệp vụ, bị câu dẫn bởi lợi ích kinh tế không chính đáng dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm pháp luật sẽ khiến tài sản trí tuệ không định vị đúng với giá trị thực chất. Rõ ràng qua những tình huống như vậy, hoạt động định giá mất đi ý nghĩa, không còn theo đúng tinh thần của Luật Doanh nghiệp. Dù cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị là hành vi bị nghiêm cấm, chế tài chịu trách nhiệm liên đới được Luật Doanh nghiệp đề ra nhưng vì thiếu cơ chế hậu kiểm gây trở ngại cho công tác kiểm tra, quản lý và xử lý.

Ba là, thiếu hướng dẫn định giá tài sản trí tuệ trong giao dịch bảo đảm.Bộ luật Dân sự năm 2015, Nghị định 21/2021/NĐ-CP Quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ghi nhận: “Chủ sở hữu quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ được dùng quyền tài sản đối với đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng hoặc quyền khác trị giá được bằng tiền phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” [9].Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận giá hoặc định giá thông qua tổ chức định giá tài sản khi xử lý tài sản bảo đảm. Trường hợp không có thỏa thuận thì tài sản được định giá thông qua tổ chức định giá tài sản.

Bên cạnh chức năng hỗ trợ giao dịch, pháp luật dân sự xúc tiến khai thác tài sản trí tuệ trở thành công cụ tài chính, rộng mở cơ hội để chủ thể kinh doanh tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ nhu cầu đầu tư, sản xuất. Đặc biệt phải kể đến các doanh nghiệp trẻ mới khởi nghiệp, giai đoạn hạn chế quy mô thì những ý tưởng, lý tưởng và tài sản trí tuệ thường là vốn quý, có giá trị nhất.

Dù vậy, mỗi quan hệ xã hội lại nằm trong “biên giới” điều chỉnh, định hướng và dẫn dắt bởi một ngành luật riêng. Bộ luật Dân sự năm 2015 cùng các văn bản hướng dẫn cho phép chủ sở hữu có thể sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản bảo đảm nhưng Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) không trực diện đề cập đến quyền này. Ngoài ra, định giá tài sản trí tuệ tuân thủ nguyên tắc chung: “giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm” nhưng nếu không chuẩn xác tiêu chí định giá thì rất khó khoanh vùng, giới hạn khoản vay. Rõ ràng, quy phạm pháp luật nếu chỉ dừng lại ở chức năng khuyến nghị là chưa đủ nếu thực tế bỏ ngỏ nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động định giá tài sản trí tuệ, tạo khoảng trống rủi ro cho quyền, lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm và bên được bảo đảm.

Thứ tư, hạn chế về sử dụng phương pháp định giáTiếp cận định giá tài sản trí tuệ quy định tại Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về Thẩm định giá tài sản vô hình ban hành kèm theo Thông tư 37/2024/TT-BTC, khả dụng 03 phương pháp:

- Phương pháp tiếp cận từ thu nhập: xác định thông qua giá trị hiện tại của các khoản thu nhập, dòng tiền và chi phí tiết kiệm mà tài sản trí tuệ mang lại.

- Phương pháp tiếp cận từ chi phí: ước tính giá trị tài sản trí tuệ dựa vào chi phí tái tạo một tài sản khác, giống nguyên mẫu tài sản cần thẩm định giá hoặc chi phí thay thế để tạo ra một tài sản tương đương, có cùng chức năng, công dụng theo giá thị trường hiện hành.

- Phương pháp tiếp cận từ thị trường: so sánh, phân tích thông tin của các tài sản trí tuệ có giá giao dịch trên thị trường với tài sản cần thẩm định giá.

5-1747648966.jpg

Ảnh minh họa

Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về Thẩm định giá tài sản vô hình trở thành nền tảng cơ bản, thiết yếu, tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn vào những khó khăn có thể gặp phải khi áp dụng. Phương pháp tiếp cận thị trường là câu trả lời lý tưởng cho mong muốn, nhu cầu mua bán, trao đổi chuyển nhượng theo thời gian thực nhưng lựa chọn đối tượng làm cơ sở tham chiếu không phải điều dễ dàng, ít nhất ở thời điểm hiện tại. Nguyên do pháp luật chưa nhắc đến cách thức xây dựng hệ thống thông tin, xác định các yếu tố ảnh hưởng có thể sai lệch kết quả định giá, chưa hình thành hệ thống tiêu chí, yêu cầu hay ràng buộc rõ độ chính xác của dữ liệu. Định giá tài sản trí tuệ như một bài toán khó, càng thách thức hơn khi đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp phải đáp ứng điều kiện về tính mới, kéo dãn thêm khoảng cách khi vốn dĩ giữa chúng đã ít có điểm tương đồng do hoàn cảnh, môi trường, điều kiện tồn tại và phát triển khác nhau.

Giá trị của tài sản trí tuệ không cố định, hầu như phụ thuộc tâm lý thị trường, niềm tin thanh khoản, sự đổi mới khoa học, công nghệ, kỹ thuật, bảo hộ pháp lý cùng năng lực chủ sở hữu. Suy rộng ra, tìm kiếm một giải pháp tối ưu, hợp lý, xây dựng mực thước đo lường chuẩn xác cần thiết phải có thời gian, khởi động một lộ trình nghiên cứu chuyên sâu, thực nghiệm, kiểm chứng rồi đánh giá, chắt lọc, tạo dựng sự ổn định thị trường kết hợp nâng cao bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp các chủ thể.

III. Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về định giá tài sản trí tuệ

6-1747649392.jpg

Ảnh minh họa

Hiệu quả pháp luật được phản ánh thông qua mức độ thích ứng phù hợp, kịp thời giải quyết những đòi hỏi phát sinh từ thực tiễn, hài hòa điều chỉnh quan hệ xã hội. Qua phân tích bất cập, hạn chế đang tồn tại trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ, tác giả đề xuất một số giải pháp:

Thứ nhất, chuẩn hoá, nhất quán thuật ngữ trong các văn bản quy phạm pháp luật về định giá tài sản trí tuệ.Định giá tài sản trí tuệ kỳ vọng ứng dụng hiệu quả nhưng đối diện thực trạng khuyết thiếu, một số quy định không còn phù hợp tình hình mới. Lập pháp đứng trên nhiều quan điểm làm phá vỡ tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Trong đó, Chuẩn mực kế toán số 04 và Thông tư số 45/2013/TT-BTC mâu thuẫn pháp luật chuyên ngành, khó khăn khi triển khai áp dụng đặt vào bối cảnh hiện nay. Nhằm khắc phục thì các văn bản quy phạm pháp luật liên quan cần tái định hình, tập trung vào quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ - thuộc phạm vi, đối tượng bảo hộ hợp pháp của Luật Sở hữu trí tuệ. Cụ thể, chỉ dẫn địa lý không nằm trong quyền sở hữu của doanh nghiệp nên được loại bỏ khỏi hoạt động quản lý, sử dụng và trích khấu hao. Đồng thời để phù hợp bản chất kinh tế cũng như pháp lý, không tiếp tục ghi nhận bằng sáng chế là tài sản cố định vô hình.

Thứ hai, bổ sung cơ chế giám sát, hậu kiểm hoạt động định giá tài sản trí tuệ khi góp vốn vào doanh nghiệp. Trên nền tảng pháp lý hiện hành, nếu ngành nghề kinh doanh không yêu cầu mức vốn pháp định thì vốn điều lệ tùy thuộc khả năng, do thành viên, chủ sở hữu công ty góp hoặc cam kết góp. Luật không ràng buộc mức tối thiểu, tối đa, không hạn chế góp thêm và cũng không chỉ định trách nhiệm chứng minh vốn điều lệ trong tài khoản ngân hàng. Bỏ qua cơ chế giám sát, hậu kiểm hoạt động góp vốn bằng tài sản trí tuệ có thể khiến giá trị tài sản và phần vốn góp kê khai không khớp, không sát thực tế. Vì vậy, có chăng đến lúc nhà làm luật cần quan tâm nghiên cứu, bổ sung cơ chế giám sát, hậu kiểm hoạt động định giá tài sản (bao gồm tài sản trí tuệ) khi góp vốn vào doanh nghiệp, hạn chế, ngăn ngừa hành vi vi phạm, giúp cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở thực thi nhiệm vụ.

Thứ ba, linh hoạt phương pháp định giá.Giá trị tài sản trí tuệ chịu tác động bởi nhiều yếu tố, phương pháp định giá vì vậy đòi hỏi tính linh hoạt, tạo thế chủ động cho chủ sở hữu, doanh nghiệp cùng các tổ chức, đơn vị định giá nắm bắt, thông hiểu, vận dụng thực hiện. Cần thiết gợi mở các yếu tố tác động, tạo dựng thị trường giao dịch, cơ chế thông tin và hình thành hệ thống tiêu chí định giá phù hợp, bảo đảm khách quan, chính xác, tin cậy của kết quả định giá.

Thứ tư, ban hành quy định hướng dẫn định giá tài sản trí tuệ trong giao dịch bảo đảm.Định giá tài sản trí tuệ trong giao dịch bảo đảm ảnh hưởng đến hạn mức cấp tín dụng và xử lý tài sản trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Tuy nhiên, pháp luật dân sự hiện mới chỉ dừng lại ở mô tả tài sản bảo đảm mà chưa có hướng dẫn định giá cụ thể. Qua đó, cần ưu tiên triển khai, ban hành hướng dẫn định giá tài sản trí tuệ trong quan hệ dân sự, bổ khuyết những nội dung pháp luật còn hạn chế.

Thứ năm, tăng cường chính sách khuyến khích, hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ.Thương mại hoá tài sản trí tuệ đang được triển khai, ứng dụng thành công tại nhiều quốc gia và đem lại kết quả khả quan. Đây chính đáng trở thành động lực để Việt Nam thực hiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp, chủ sở hữu tài sản trí tuệ đầu tư, phát triển và định giá. Bên cạnh đó, Nhà nước cần quan tâm đào tạo đội ngũ nhân lực chuyên trách đảm nhiệm kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, kết hợp tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tăng cường tiếp xúc doanh nghiệp và các tổ chức, đơn vị có chức năng định giá nhằm kịp thời nắm bắt, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn.

Thứ sáu, nâng cao nhận thức vai trò định giá tài sản trí tuệ và năng lực, chuyên môn của các tổ chức, đơn vị định giá.Luôn luôn tồn tại liên kết, tương tác giữa nhận thức, hành động và hiệu quả áp dụng pháp luật nhưng rõ ràng rằng mức độ nắm bắt, nhận diện vấn đề, thông hiểu quy định, chính sách ở doanh nghiệp, chủ sở hữu tài sản trí tuệ không đồng đều, điều này dễ dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật một cách tùy nghi, kém hiệu quả, hao tổn nguồn lực.

Hơn hết, các chủ thể phải nỗ lực tự trang bị kiến thức pháp lý cũng như nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động định giá, bảo đảm quá trình định giá đúng pháp luật, không phương hại lợi ích chủ thể khác. Nghiên cứu xây dựng bộ phận chuyên môn, quy chế nội bộ về tài sản trí tuệ là giải pháp nên cân nhắc. Song song, Nhà nước cũng cần chú trọng tập huấn, bồi dưỡng, trao đổi nghiệp vụ để trang bị và nâng cao kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho các tổ chức, đơn vị định giá. Các chủ thể này không chỉ là đối tượng điều chỉnh mà còn đóng vai trò phản biện xã hội, cơ sở hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.

Nhìn lại chặng đường phát triển của Việt Nam đến nay chứng kiến nhiều thành quả rất đáng tự hào, mặc dù đối diện không ít thách thức, một số doanh nghiệp Việt vẫn vươn mình trở thành đại diện tiêu biểu cho quốc gia, khu vực. Diễn tiến trong đó, thay đổi cơ cấu tài sản khẳng định tầm quan trọng của các loại tài sản trí tuệ. Hoạt động định giá vừa mang ý nghĩa định vị năng lực, hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn tín dụng, giải quyết tranh chấp, phục vụ lĩnh vực dân sự, thương mại nhưng đồng thời cũng trở thành cán cân đo lường sức khoẻ nền kinh tế tri thức. Tương lai, hiệu quả hoạt động sẽ sớm được nhìn thấy thông qua quyết tâm, nỗ lực từ nhiều phía, đóng góp, xây dựng, hiệu chỉnh và củng cố khung pháp lý, khởi tạo môi trường thuận lợi đáp ứng vận hành thiết chế này.

--------------------------

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]Vũ Ngọc Tuấn (2017), Định giá thương hiệu doanh nghiệp tại Việt Nam, https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/dinh-gia-thuong-hieu-doanh-nghiep-tai-viet-nam-133910.html, truy cập ngày 19/05/2025.

[2] Cục sở hữu trí tuệ (2021), Doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn thờ ơ với tài sản trí tuệ, https://ipvietnam.gov.vn/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/7xsjBfqhCDAV/content/doanh-nghiep-vua-va-nho-van-tho-o-voi-tai-san-tri-tue?inheritRedirect=false, truy cập 19/05/2025.

[3] Điểm b, Khoản 1, Điều 6, Thông tư 45/2013/TT-BTC

[4] Khoản 3, Điều 11, Thông tư 45/2013/TT-BTC.

[5] Khoản 4, Điều 121, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.

[6] Khoản 1, Điều 34, Luật Doanh nghiệp năm 2020.

[7] Điều 131, Luật Doanh nghiệp năm 2020.

[8] Điều 36, Luật Doanh nghiệp năm 2020.

[9] Điều 17, Nghị định 21/2021/NĐ-CP.

 
 
Bùi Sĩ Thành
Theo Phaply.net