
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trò chuyện với các đại biểu dự Kỳ họp thứ 20, HĐND tỉnh Thanh Hoá khoá XVIII
Mệnh lệnh của cuộc sống
“Pháp luật kiến tạo phát triển” (gọi tắt là PLKT) là một khái niệm đề cao vai trò chủ động, tích cực của Nhà nước trong việc sử dụng các công cụ pháp lý để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc trưng của loại hình pháp luật này là tính linh hoạt, cởi mở, trao quyền chủ động, sáng tạo cho các cơ quan hành pháp và chính quyền địa phương nhằm kịp thời nắm bắt các cơ hội phát triển. Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” ban hành ngày 30/4/2025, chính thức đặt vị trí trung tâm và đề cao mạnh mẽ vai trò của “pháp luật kiến tạo phát triển” như một trụ cột cho sự phát triển quốc gia trong giai đoạn mới.
Ra đời trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với yêu cầu cấp thiết phải tháo gỡ các “điểm nghẽn” thể chế, những nội dung đề cập trong NQ 66 khơi thông mọi nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trong kỷ nguyên số. Từ tư duy “pháp luật quản lý” (tập trung vào việc tạo ra các công cụ để Nhà nước kiểm soát, quản lý xã hội, vốn phổ biến trong giai đoạn nhà nước bao cấp, nơi luật pháp thiên về kiểm soát hành vi), cách tiếp cận này đã không còn phù hợp trong bối cảnh một nền kinh tế mở, năng động và chịu sức ép cạnh tranh toàn cầu. Hay nói cách khác, trong bối cảnh mới, “pháp luật quản lý” sẽ tạo ra rào cản, làm chậm quá trình ra quyết sách và giảm khả năng thích ứng linh hoạt với thực tiễn thay đổi nhanh chóng.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã từng chỉ ra một nghịch lý kéo dài suốt nhiều năm trong lĩnh vực đầu tư công tại Việt Nam: “Có tiền mà không tiêu được”. Đây không phải là phát hiện mới, nhưng việc một lãnh đạo cao nhất của Đảng trực tiếp chỉ ra điểm nghẽn này tại Quốc hội đã nâng tầm vấn đề lên thành một cảnh báo chính trị: Thể chế. Vì vậy có thể nói, NQ 66 đánh dấu một sự chuyển dịch tư duy xây dựng luật mang tính bước ngoặt, đặt ra yêu cầu phải chuyển đổi mạnh mẽ sang tư duy “pháp luật kiến tạo phát triển”. Có nghĩa, pháp luật không chỉ là công cụ quản lý, điều chỉnh hành vi mà phải giữ vai trò tiên phong, dẫn dắt, mở đường và thúc đẩy sự phát triển. Nó phải trở thành động lực để giải phóng sức sản xuất, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ các mô hình kinh doanh mới, và tạo lập một môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn, minh bạch, có tính cạnh tranh cao.
Những thách thức đối với việc kiểm soát quyền lực
Tuy nhiên, bên cạnh những đặc tính ưu việt trên lại đặt ra những thách thức đối với việc kiểm soát quyền lực:
(i) Nguy cơ cài cắm “lợi ích nhóm”: Sự linh hoạt và trao quyền rộng rãi có thể tạo ra những “khoảng trống” pháp lý, nguy cơ tiêu cực nảy sinh, dễ bị các cá nhân, tổ chức lợi dụng, chi phối chính sách, làm méo mó các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Các chuyên gia và ĐBQH đã từng chỉ ra những biểu hiện và nguy cơ cụ thể của việc lạm dụng quyền lực và “lợi ích nhóm” trong quá trình xây dựng PLKT, đó là: “Cài cắm” chính sách (tham nhũng chính sách). Đây là hình thức tinh vi nhất và nguy hiểm nhất. Các nhóm lợi ích, thông qua các mối quan hệ, vận động hành lang không chính thức hoặc sử dụng chuyên gia của mình, tác động để đưa vào luật những quy định có lợi cho ngành, lĩnh vực hoặc doanh nghiệp của mình.

Sự linh hoạt và trao quyền rộng rãi có thể tạo ra những “khoảng trống” pháp lý, dễ bị lợi dụng chi phối chính sách
Khi “lợi ích nhóm” thao túng, tổ chức được giao chủ trì soạn thảo một dự án luật sẽ lồng ghép lợi ích cục bộ, đưa vào những quy định có lợi cho “ nhóm lợi ích. Điều này đi ngược lại tinh thần kiến tạo là phục vụ người dân và cộng đồng doanh nghiệp
Việc PLKT bị chi phối bởi lợi ích nhóm và lạm dụng quyền lực sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng: Tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng, triệt tiêu động lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp. Hay nói cách khác làm méo mó môi trường kinh doanh. Các nguồn lực của xã hội như đất đai, tài nguyên, ngân sách nhà nước không được phân bổ một cách hiệu quả mà chảy vào túi các nhóm lợi ích. Khi người dân và doanh nghiệp nhận thấy pháp luật không bảo vệ lợi ích chung mà chỉ phục vụ một nhóm người, niềm tin vào sự công bằng và thượng tôn pháp luật của nhà nước sẽ bị suy giảm.
(ii) Rủi ro vì các quyết định chủ quan: Với đặc tính trao quyền tự chủ và linh hoạt cao hơn cho người thực thi, PLKT có thể tạo ra nguy cơ gia tăng sự chủ quan, thậm chí dẫn đến mâu thuẫn trong các quyết định chỉ đạo của lãnh đạo, đặc biệt là khi các quyết định đó đòi hỏi phải được ban hành nhanh chóng. Áp lực phải ra quyết định nhanh chóng để không bỏ lỡ các cơ hội phát triển có thể dẫn đến việc xem nhẹ hoặc bỏ qua các quy trình giám sát, thẩm định, phản biện, từ đó làm giảm chất lượng và tính khả thi của các chính sách, dự án. Sự thiếu minh bạch sẽ tạo điều kiện cho các quy định mang tính lợi ích nhóm dễ dàng được “hợp thức hóa”.
Nguyên nhân nằm ở sự khác biệt giữa hai loại tư duy pháp luật: Nếu như pháp luật quản lý (truyền thống), tạo thói quen đối với người lãnh đạo áp dụng một cách máy móc, hạn chế sự linh hoạt vì pháp luật được thiết kế rập khuôn theo quy trình A, B, C và được cụ thể các bước phải làm, mang tính “cầm tay chỉ việc”; thì PLKT không chỉ rõ phải đi đường nào mà chỉ đưa ra đích đến và các giới hạn không được vượt qua, tạo ra khoảng “không gian” cho sự sáng tạo. Khi đó người lãnh đạo được trao quyền để lựa chọn con đường hiệu quả nhất trong bối cảnh cụ thể. Song chính “quyền được lựa chọn” và “khoảng trống cho sự sáng tạo” lại là nơi phát sinh nguy cơ về sự chủ quan.
(iii) Nguy cơ lạm quyền, tham nhũng từ phân cấp, phân quyền: Từ ngày 01/7/2025, mô hình chính quyền địa phương hai cấp đi vào hoạt động, thực hiện theo Kết luận số 127-KL/TƯ ngày 28/2/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về “Triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”, các đơn vị hành chính cấp xã trực tiếp đảm nhận hơn 1.000 nhiệm vụ, quyền hạn (thuộc cấp huyện trước đó), nhằm chủ động hơn trong việc giải quyết các vấn đề của người dân và doanh nghiệp phát sinh ở cơ sở, rút ngắn được thời gian và chi phí. Đó cũng là tinh thần đổi mới của NQ66 về xây dựng PLKT.

Đại biểu Trần Văn Khải (Đoàn Hà Nam): Việc phân quyền mạnh mẽ có thể khiến một số địa phương tự quyết định theo lợi ích địa phương…
Tuy nhiên, việc trao quyền mạnh mẽ cho đơn vị hành chính cấp xã mới cũng đặt ra không ít thách thức. Nguy cơ lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực nếu thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả. ĐBQH Trần Văn Khải (Đoàn Hà Nam) nêu rõ: Việc phân quyền mạnh mẽ có thể khiến một số địa phương tự quyết định theo lợi ích địa phương, không nhất quán với chính sách chung.chính quyền địa phương có thể lạm quyền và thiếu kiểm soát. Một số tỉnh, thành phố giàu tài nguyên hoặc có kinh tế mạnh có thể tận dụng quyền phân quyền để thiết lập các chính sách ưu đãi riêng, gây bất bình đẳng với các địa phương khác. Ngược lại, các địa phương yếu kém có thể không đủ năng lực thực hiện, gây trì trệ hoặc thậm chí lạm dụng quyền lực để trục lợi.
Phát biểu tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2025 của Chính phủ và chính quyền địa phương đầu năm 2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đặc biệt nhấn mạnh việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong hành chính, kinh tế, tài chính - ngân sách, quản lý tài nguyên... Với yêu cầu sửa đổi pháp luật và cơ chế quản lý để trao quyền tự quyết, chủ động nhiều hơn cho các cấp chính quyền, Tổng Bí thư lưu ý việc này cần đi đôi với cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực chặt chẽ, bảo đảm không để xảy ra lạm dụng quyền hạn.
Thách thức trong xây dựng cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực
Việc xây dựng một cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực hiệu quả trong bối cảnh “pháp luật kiến tạo phát triển” tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức. Có thể nhận diện như sau:
(i) Hệ thống pháp luật còn chồng chéo, thiếu đồng bộ: Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong rà soát xử lý mâu thuẫn, chồng chéo giữa các luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, qua đó giúp giảm quy trình, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp và xã hội. Tuy nhiên, cần nhìn nhận thẳng thắn rằng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giám sát, kiểm soát quyền lực vẫn còn những điểm chồng chéo, mâu thuẫn, nhất là hệ thống pháp luật kinh doanh vẫn còn phức tạp, thiếu minh bạch, thiếu đồng bộ. Đó không đơn thuần là lỗi hành chính hay năng lực thực thi, mà là biểu hiện của một hệ thống pháp lý cứng nhắc và thiên về kiểm soát. Khi mỗi dự án phải qua hàng chục cửa, mỗi bước đều có thể bị “treo” chỉ vì một công văn chưa được hướng dẫn rõ ràng. Nhiều quy định pháp luật vẫn mang nặng tư duy “không quản được thì cấm”.
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo “Nhận diện khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và kiến nghị” do VCCI phối hợp với Bộ Tư pháp – cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật tổ chức tổ chức hồi tháng 7, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI - Đậu Anh Tuấn cho biết, nhiều quy định về pháp luật đang chồng chéo, mâu thuẫn hoặc không còn phù hợp với thực tiễn. “Có những quy định đã phát sinh bất cập từ lâu, nhưng vẫn tồn tại suốt hơn một thập kỷ, gây ra hệ lụy lớn cho hoạt động đầu tư và vận hành doanh nghiệp. Thậm chí có những quy định mới ban hành trong năm nay nhưng đã phát sinh bất cập trong quá trình áp dụng…”

Pháp luật còn chồng chéo, không đồng bộ… khiến vốn đầu tư công tăng trên danh nghĩa nhưng tỷ lệ giải ngân ở mức thấp báo động
Lấy ví dụ về sự bất cập của thủ tục pháp lý liên quan đến các dự án sử dụng đất. Sự giao thoa giữa Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Xây dựng và Luật Nhà ở khiến doanh nghiệp phải thực hiện nhiều bước thẩm định lặp lại nhưng không tạo thêm giá trị pháp lý. Hệ quả là quá trình triển khai dự án kéo dài, tạo chi phí cơ hội lớn và làm giảm sức hút của môi trường đầu tư. Ngay cả trong những lĩnh vực được khuyến khích như năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường, phát triển khoa học công nghệ… các quy định hiện hành vẫn còn gây khó khăn, khiến nhà đầu tư phải cân nhắc rất kỹ.
Hệ lụy của sự chồng chéo, mâu thuẫn, không đồng bộ của pháp luật là vốn đầu tư công tăng liên tục trên danh nghĩa nhưng tỷ lệ giải ngân luôn ở mức thấp . Tình trạng này không chỉ gây lãng phí nguồn lực quốc gia, mà còn dẫn đến hiệu ứng domino: doanh nghiệp thiếu việc làm, công trình chậm tiến độ, nền kinh tế mất đi những cú hích cần thiết.
(ii) Cơ chế kiểm soát bên trong và bên ngoài còn bất cập
Sự phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy đã được xác định là nguyên tắc hiến định (khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013) nhưng trên thực tế vẫn còn những vướng mắc. Dù đây là qui định quan trọng, tạo nền tảng hiến định cho việc xây dựng một nhà nước PQXHCN minh bạch, hiệu quả và phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, sau hơn 12 năm đi vào cuộc sống, việc thực thi nguyên tắc này trên thực tế vẫn còn tồn tại không ít vướng mắc, thách thức, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ và quyết tâm chính trị cao để tháo gỡ.
+ Kiểm soát quyền lực bên trong: Vai trò giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp ngày càng được nâng cao nhưng hiệu lực, hiệu quả chưa như kỳ vọng. Các báo cáo của cơ quan chịu sự giám sát đôi khi còn chung chung, chưa đi thẳng vào những vấn đề gai góc. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội dù có nhiều đổi mới nhưng việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các lời hứa sau chất vấn chưa thực sự quyết liệt.
Mặc dù toà án có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, nhưng phạm vi xem xét và tính hiệu lực của các phán quyết đôi khi chưa đủ mạnh để tạo ra sự thay đổi mang tính hệ thống trong quản lý nhà nước. Vẫn còn tâm lý e ngại va chạm của một bộ phận thẩm phán khi xét xử các vụ án liên quan đến các cơ quan công quyền. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong chính các cơ quan tư pháp, đặc biệt là kiểm soát hoạt động xét xử của tòa án, vẫn còn những bất cập, tiềm ẩn nguy cơ tiêu cực.
+ Kiểm soát quyền lực bên ngoài: Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và người dân ngày càng được coi. Tuy nhiên do đội ngũ cán bộ, đặc biệt ở cấp cơ sở, nhiều nơi còn mỏng, kiêm nhiệm nhiều việc, thiếu chuyên môn sâu trong các lĩnh vực cần giám sát, phản biện, làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính thuyết phục của các kết luận, kiến nghị.
Mặc dù pháp luật đã có quy định về trách nhiệm của các cơ quan trong việc tiếp thu, trả lời và giải quyết các kiến nghị sau giám sát, phản biện, nhưng trên thực tế, việc thực hiện chưa nghiêm. Nhiều kiến nghị của MTTQ và người dân gửi đến các cơ quan có thẩm quyền nhưng chậm được trả lời, hoặc trả lời một cách chung chung, không đi vào trọng tâm. Nguyên nhân là do thiếu một cơ chế theo dõi, đôn đốc và “chế tài” đủ mạnh đối với những tổ chức, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các kiến nghị đã được thống nhất. Trong khi đó, cơ chế để người dân thực sự tham gia vào quá trình kiểm soát quyền lực còn chưa thực sự rõ ràng và hiệu quả.
(iv) Cơ chế bảo vệ người tố cáo và người giám sát chưa phát huy tác dụng: Cho đến nay, pháp luật Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để tạo hành lang pháp lý cho việc bảo vệ người tố cáo . Tuy nhiên, tâm lý e ngại, sợ bị trù dập vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng đến tinh thần dám đấu tranh, dám lên tiếng của cả người dân và cán bộ thực thi nhiệm vụ. Có nhiều nguyên nhân nhưng thách thức lớn nhất nằm ở khâu tổ chức thực thi để các quy định này thực sự đi vào cuộc sống. Các quy định pháp luật còn chung chung, chưa cụ thể hóa trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ người tố cáo. Việc áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản còn gặp nhiều khó khăn, nhất là khi người tố cáo bị đe dọa. Tương tự, việc thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ người thực thi công vụ vẫn chưa hiệu quả. …
Kiến nghị giải pháp
Để khắc phục những thách thức trên và xây dựng một cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước thực sự hiệu quả trong bối cảnh PLKT, theo chúng tôi cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau:
1. Minh định ranh giới giữa quyền “kiến tạo” và hành vi “lạm quyền”.
Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về các cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực (bao gồm Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí) theo hướng cụ thể hóa, đồng bộ, thống nhất, khắc phục những chồng chéo, mâu thuẫn, để nâng cao hiệu lực. Cần có các quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong việc ra quyết định. Đặc biệt, cần minh định ranh giới giữa quyền “kiến tạo” và hành vi “lạm quyền” khi hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Ảnh minh họa
Nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật về giám sát và kiểm soát quyền lực hoặc các văn bản quy phạm chuyên ngành về kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong đó quy định rõ ràng, cụ thể về chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức và chế tài xử lý vi phạm; quy định rõ về quyền, trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân trong việc giám sát và kiểm soát quyền lực, từ trung ương đến địa phương.
Tăng cường tính độc lập của các cơ quan tư pháp. Cần có cơ chế để Tòa án và Viện kiểm sát hoạt động độc lập, không bị can thiệp từ các cơ quan hành pháp. Minh bạch hóa và công khai hóa, thể chế hóa nguyên tắc “mọi quyền lực đều phải được kiểm soát”, tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Quy định rõ ràng, cụ thể hơn về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật.
2. Xây dựng đội ngũ công chức bản lĩnh, liêm chính, chuyên nghiệp
PLKT trao cho người lãnh đạo cơ hội để tạo ra sự đột phá, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro về sự tùy tiện, chủ quan nếu thiếu đi một hệ thống kiểm soát quyền lực đủ mạnh, một nền công vụ chuyên nghiệp và một văn hóa thượng tôn pháp luật thực sự. Thách thức lớn nhất là làm sao để dung hòa giữa sự linh hoạt cần thiết và sự kiểm soát quyền lực bắt buộc. Càng thách thức hơn trong bối cảnh thực hiện chính quyền 2 cấp, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Vấn đề là làm thế nào để thực hiện hiệu quả đi đôi với kiểm soát trách nhiệm, đòi hỏi bộ máy chính quyền cơ sở phải đủ năng lực, trách nhiệm và sự minh bạch. Nếu không, rất dễ xảy ra tình trạng “trên giao việc, dưới làm không nổi” hoặc lợi dụng quyền được trao để trục lợi.
Để tránh nguy cơ lạm quyền khi phân cấp, phân quyền cho đơn vị hành chính cấp xã, cần vận hành đồng bộ cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên trong, thông qua việc tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã theo hướng chuyên nghiệp hơn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo bài bản, tuyển chọn công khai, đánh giá hiệu quả bằng kết quả cụ thể. Không chỉ về chuyên môn mà còn về khả năng ra quyết định trong điều kiện bất định, khả năng phân tích, đánh giá tác động và trên hết là bản lĩnh dám làm, dám chịu trách nhiệm.
PLKT cần vạch ra những nguyên tắc cốt lõi, những giới hạn không thể vượt qua một cách rõ ràng. Sự linh hoạt, sáng tạo chỉ được phép trong khuôn khổ đó. Mọi quyết định nhanh, dù dựa trên tinh thần kiến tạo, đều phải được giải trình một cách công khai, minh bạch về lý do, mục tiêu, và cơ sở của quyết định. Mọi sai phạm phải được xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm. Cần có cơ chế truy cứu trách nhiệm cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tiêu cực trong phạm vi quản lý của mình.
3. Thiết lập cơ chế giám sát và hậu kiểm hữu hiệu
Đây là yếu tố quan trọng nhất. Cần có cơ chế giám sát (của cơ quan cấp trên, của HĐND, của MTTQ, các đoàn thể và người dân) và đặc biệt là cơ chế hậu kiểm. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, bất kể đó là ai. Hoàn thiện các quy định về tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, đánh giá cán bộ dựa trên năng lực, hiệu quả công việc và phẩm chất đạo đức. Thực hiện nghiêm quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức công vụ, xây dựng văn hóa liêm chính trong toàn hệ thống chính trị và xã hội.

Chuyển đổi số sẽ giúp người dân tiếp cận thông tin nhanh hơn, theo đó thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội thực chất hơn
Song song với biện pháp tự kiểm soát quyền lực từ nội bộ, việc tăng cường kiểm soát từ bên trên có ý nghĩa rất quan trọng. Điều đó cần được thể hiện thông qua việc cấp tỉnh tổ chức hậu kiểm, thanh tra thường xuyên đối với các hoạt động được phân cấp cho cấp xã; sử dụng công nghệ số trong quản lý, theo dõi và phản ánh từ người dân một cách hiệu quả. Đi đôi với đó là tăng cường vai trò của HĐND cấp xã như một “hàng rào” giám sát đối với UBND cùng cấp khi chính quyền địa phương hai cấp chính thức vận hành. Đặc biệt là phát huy vai trò giám sát của nhân dân và cơ quan báo chí.
Cơ chế kiểm soát quyền lực cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng với hoạt động thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra của cơ quan chức năng nhằm kịp thời phát hiện sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý, đề xuất bổ sung, sửa đổi các văn bản liên quan cho phù hợp cũng như xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm. Cùng với đó là chú trọng xây dựng tổ chức Ðảng trong sạch, vững mạnh; phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền; hoàn thiện pháp luật, xây dựng thể chế đồng bộ để ngăn chặn tha hóa quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Hoạt động giám sát cần được tiến hành thường xuyên, chuyên sâu hơn, có sự tham gia của các chuyên gia độc lập. Có cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp tham gia vào quá trình giám sát, phản biện xã hội. Bảo vệ quyền tự do báo chí, tạo môi trường thuận lợi để báo chí hoạt động độc lập, thực hiện vai trò phản biện xã hội và giám sát một cách hiệu quả. Chuyển đổi số sẽ giúp người dân tiếp cận thông tin nhiều hơn, theo đó, cần có cơ chế cụ thể, hiệu quả hơn để các chủ thể và người dân thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội thực chất, góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Thay lời kết
Xây dựng cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả trong bối cảnh pháp luật “kiến tạo phát triển” không phải là nhiệm vụ dễ dàng. Nó đòi hỏi sự quyết tâm chính trị mạnh mẽ, sự thay đổi toàn diện từ tư duy đến hành động; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực của các chủ thể giám sát, và đặc biệt là tăng cường tính minh bạch, công khai trong hoạt động của các cơ quan công quyền. Chỉ khi giải quyết được các thách thức hiện tại, hay nói cách khác chỉ khi quyền lực được giám sát và kiểm soát chặt chẽ, mới có thể tận dụng được những cơ hội mà pháp luật “kiến tạo” mang lại, xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân, và vì dân, đảm bảo sự phát triển bền vững và công bằng cho toàn xã hội.
--------------------------
Bài viết tham khảo các tư liệu thông tin:
1. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/993102/mot-so-van-de-co-ban-ve-phan-cong%2C-phoi-hop-va-kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen.aspx
2. https://mattran.org.vn/tin-tuc/tong-bi-thu-hoan-thien-the-che-phap-luat-phai-mo-duong-cho-kien-tao-phat-trien-63986.html
3.https://viettimes.vn/doi-moi-tu-duy-lam-luat-tu-quan-ly-sang-kien-tao-post185706.html
4. https://baotuyenquang.com.vn/kiem-soat-quyen-luc-khi-trao-quyen-213877.html
5.https://vcci.com.vn/news/phap-luat-kinh-doanh-con-nhieu-chong-cheo-chua-phu-hop
6. https://lyluanchinhtri.vn/hoat-dong-giam-sat-van-ban-quy-pham-phap-luat-cua-quoc-hoi-37.html
7. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1239
8. https://laodong.vn/thoi-su/de-nghi-co-che-kiem-soat-viec-phan-quyen-phan-cap-uy-quyen-1463117.ldo
Luật gia Vũ Lê Minh (Ủy viên Ban Biên tập TCPL)
Theo Phaply.net.vn