Các điều kiện về dịch vụ logistics không cần thiết vì trùng lặp và chồng chéo với các quy định khác…
Luật Đầu tư còn nhiều ngành, nghề kinh doanh có điều kiện không cần thiết
Luật Đầu tư 2020 đang có hiệu lực, tính đến nay đã trải qua 2 lần sửa đổi, bổ sung trực tiếp bởi Luật số 03/2022/QH15 ngày 11/01/2022 và Luật số 57/2024/QH15 ngày 29/11/2024. Tuy nhiên đến kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, Luật Đầu tư 2020 tiếp tục được đưa vào danh sách trong số 34 dự án Luật sửa đổi, bổ sung sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua. Điều đó có nghĩa dự án Luật vẫn còn nhiều bất cập nay nói cách khác vẫn còn điểm nghẽn về pháp lý.
Điển hình là một số dịch vụ logistics: Theo quy định của pháp luật đầu tư (Mục 61, Phụ lục 4 của Luật Đầu tư 2014 và Nghị định 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp) và các luật có liên quan,doanh nghiệp có nhu cầu kinh doanh dịch vụ logistics phải có: (i) Vốn điều lệ tối thiểu là 4 tỷ đồng; (ii) Phải mua bảo hiểm trách nhiệm cho hàng hóa trong quá trình vận chuyển, bảo quản và lưu trữ; (iii) Nếu doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử để kinh doanh logistics, cần tuân thủ các quy định về thương mại điện tử; (iv) và Các điều kiện khác liên quan đến giấy phép, chứng chỉ, phương tiện, nhân sự… tùy thuộc vào loại hình dịch vụ logistics cụ thể (ví dụ: vận tải, kho bãi, thủ tục hải quan)
Luật sư Lê Hoài Sơn – Trưởng Văn phòng Luật sư Trung Sơn (Đoàn Luật sư Bình Định), cho rằng các điều kiện nói trên không cần thiết vì trùng lặp và chồng chéo với các quy định khác. Nhiều hoạt động có liên quan đến logistics như vận tải, kho bãi, khai báo hải quan đều đã có các luật chuyên ngành (Luật Giao thông đường bộ, Luật Hải quan... ) điều chỉnh và các quy định riêng về điều kiện hoạt động, an toàn, tiêu chuẩn kỹ thuật. Cũng như vậy đối với yêu cầu về bảo hiểm trách nhiệm thường đã là một phần tất yếu của hợp đồng dịch vụ logistics. Việc quy định cứng nhắc trong luật không cần thiết vì thị trường có thể tự điều chỉnh thông qua các hợp đồng và các quy định pháp luật chung về dân sự, thương mại.
Việc quy định thêm các điều kiện trong Luật Đầu tư hoặc các nghị định về logistics gây khó khăn cho doanh nghiệp khi phải tuân thủ nhiều văn bản cùng lúc. Hay các quy định về điều kiện về vốn, cơ sở vật chất, chứng chỉ có thể tạo ra rào cản tài chính và hành chính đáng kể, đặc biệt đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc SMEs muốn tham gia thị trường. Điều này làm giảm tính cạnh tranh và hạn chế sự đổi mới, gây cản trở cạnh tranh và gia nhập thị trường của DN vì chi phí tuân thủ cao. Theo đó sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng các công nghệ và mô hình mới của DN trong bối cảnh thị trường logistics ngày càng phát triển với nhiều mô hình kinh doanh mới (như logistics của thương mại điện tử)…
Ngoài ra còn hàng loạt các ngành nghề kinh doanh khác bắt buộc phải có điều kiện mà theo các chuyên gia cho rằng không cần thiết phải duy trì gây khó khăn cho DNVVN. Có thể liệt kê: (i) Kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế (đặc biệt lữ hành inbound/lữ hành nội địa) yêu cầu ký quỹ 250 – 500 triệu đồng, theo quy định tạiNghị định số 168/2017/NĐ-CP)là một gánh nặng đáng kể cho các công ty du lịch nhỏ, mới thành lập. Có thể xem xét giảm mức ký quỹ hoặc áp dụng hình thức bảo lãnh thay thế, đặc biệt đối với các công ty chỉ chuyên khai thác khách nội địa hoặc khách inbound (khách nước ngoài vào Việt Nam) với quy mô nhỏ.

Theo các chuyên gia, kinh doanh dịch vụ kế toán chỉ cần yêu cầu chủ doanh nghiệp có đủ năng lực và chịu trách nhiệm chính…
(ii) Hay đối với kinh doanh dịch vụ việc làm, yêu cầu ký quỹ có thể làm khó các trung tâm tư vấn, giới thiệu việc làm quy mô nhỏ, trong khi mục tiêu bảo vệ người lao động có thể thực hiện thông qua các quy định chặt chẽ hơn về hợp đồng, trách nhiệm pháp lý; (iii) Kinh doanh dịch vụ giáo dục, đào tạo (ngoại ngữ, kỹ năng mềm, tin học), yêu cầu về diện tích phòng học, phòng chức năng có thể quá cứng nhắc, gây khó khăn cho các trung tâm nhỏ, linh hoạt. Có thể thay thế bằng các tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh và chất lượng giảng dạy.
(iv) Kinh doanh dịch vụ kế toán, tư vấn thuế quy mô nhỏ:Theo Luật sư Lê Hoài Sơn, việc yêu cầu tất cả nhân sự hoặc tỷ lệ cao nhân sự có chứng chỉ hành nghề có thể gây khó khăn cho các đơn vị nhỏ, nơi chủ doanh nghiệp đã có đủ năng lực và chịu trách nhiệm chính. Có thể tập trung vào trách nhiệm của người đứng đầu và chất lượng dịch vụ đầu ra; (v) Kinh doanh photocopy, in ấn quy mô nhỏ: Các điều kiện về an ninh trật tự hoặc quản lý ngành nghề này đôi khi được xem là không còn cần thiết trong bối cảnh công nghệ phát triển và rủi ro thấp; (vi) Kinh doanh dịch vụ làm đẹp không xâm lấn (massage, chăm sóc da cơ bản): Có thể đơn giản hóa các điều kiện về cơ sở vật chất, chứng chỉ, và tập trung vào các quy định về vệ sinh an toàn, đạo đức nghề nghiệp và kiểm tra định kỳ.
Luật về PPP, các nhà đầu tư vẫn chưa yên tâm về cơ chế chia sẻ rủi ro…
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã chính thức thông qua Luật số 64/2020/QH14 ngày 18/06/2020 về đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Với việc ban hành Luật PPP độc lập là một bước tiến lớn, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, có hiệu lực cao và ổn định hơn cho các dự án PPP tại Việt Nam, khắc phục những hạn chế, vướng mắc từ các văn bản dưới luật trước đó.
Sau 4 năm đi vào cuộc sống, Luật PPP trở nên bất cập khiến các các nhà đầu tư tư nhân không mặn mà với dự án PPP. Để khắc phục, Luật số 57/2024/QH15 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật PPP, Luật Đấu thầu) đã ra đời với nhiều quy định mới được kỳ vọng sẽ mở rộng không gian và tăng sức hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư tư nhân vào các công trình, dự án công. Tuy nhiên trước yêu cầu thay đổi của đất nước bước vào kỷ nguyên mới, những sửa đổi, bổ sung của Luật 57 chưa thể tháo gỡ hết các điểm nghẽn. Vì vậy mà Luật PPP vẫn nằm trong số 34 dự án Luật sửa đổi, bổ sung sẽ được kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV tiếp tục xem xét sửa đổi bổ sung một số điều.

Nhà đầu tư dự án PPP vẫn gánh phần lớn rủi ro về doanh thu và khả năng hoàn vốn, trong khi Nhà nước chưa có cam kết rõ ràng…
Theo Luật gia Lê Công Tâm, mặc dù đã có những nỗ lực, nhưng Luật PPP hiện hành vẫn chưa thực sự tạo ra một cơ chế chia sẻ rủi ro đủ linh hoạt và toàn diện đối với các rủi ro thị trường (như lưu lượng giao thông không đạt kỳ vọng), rủi ro về lãi suất, tỷ giá, hay các rủi ro pháp lý khác ngoài thay đổi chính sách. Nhà đầu tư vẫn gánh phần lớn rủi ro về doanh thu và khả năng hoàn vốn, trong khi Nhà nước chưa có cam kết rõ ràng, đủ mạnh về việc bù đắp thiếu hụt doanh thu khi có biến động bất lợi không do lỗi của nhà đầu tư.
Luật 57 đã sửa đổi cho phép Thủ tướng Chính phủ hoặc HĐND cấp tỉnh được quyết định tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia dự án PPP (có thể lên đến 70% trong một số trường hợp đặc biệt nhưng không quá 70% đối với dự án cụ thể). Điều này vẫn được xem là chưa đủ linh hoạt cho nhiều dự án có tính chất đặc thù, rủi ro cao hoặc khả năng thu hồi vốn chậm. Trong khi đó việc giải ngân vốn của Nhà nước đúng tiến độ là một nghĩa vụ cơ bản, nhưng hiện chưa có chế tài rõ ràng nếu Nhà nước không thực hiện đúng, làm tăng rủi ro cho nhà đầu tư.
Theo Điều 84 Luật PPP 2020 quy định, Nhà nước chỉ chia sẻ 50% phần giảm doanh thu khi doanh thu thực tế thấp hơn 75% doanh thu dự kiến; và nhà đầu tư chia sẻ 50% phần tăng doanh thu khi doanh thu thực tế cao hơn 125% doanh thu dự kiến. Mức 50% này, theo Luật gia Lê Công Tâm chưa thực sự hấp dẫn để bù đắp cho những rủi ro lớn mà nhà đầu tư phải gánh chịu, nhất là đối với các dự án có vòng đời dài. Trong khi đó việc áp dụng cơ chế chia sẻ rủi ro thường chỉ được xem xét khi có sự thay đổi về quy hoạch, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bỏ qua nhiều loại rủi ro khác mà nhà đầu tư thường xuyên phải đối mặt như thị trường, xây dựng, điều hành, thiên tai, dịch bệnh…
Đặc biệt là những cam kết tài chính của khu vực công trong hợp đồng. Nhà đầu tư lo ngại rằng khu vực công, một bên trong hợp đồng dự án, có thể không thực hiện đầy đủ cam kết của mình, đặc biệt là nghĩa vụ về tài chính. Trong khi nghĩa vụ và chế tài đối với nhà đầu tư thường rất chặt chẽ, thì phần nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan ký kết hợp đồng thường chỉ chung chung, mang tính nguyên tắc. Việc phạt vi phạm hợp đồng đối với cơ quan ký kết hợp đồng, nhất là phạt tiền, là rất khó thỏa thuận. Đến nay, việc giải quyết tranh chấp vẫn chủ yếu thông qua thương lượng nội bộ, chưa có sự can thiệp của bên thứ ba một cách hiệu quả. Khi dự án gặp khó khăn nghiêm trọng hoặc không thể tiếp tục, cơ chế mua lại dự án của Nhà nước vẫn chưa thực sự rõ ràng và hiệu quả.
Phải chăng những bất cập trên đây là lý do khiến cho 2 tỷ phú Phạm Nhật Vượng và Trần Bá Dương “cùng đua” thực hiện dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đã đề xuất phương án đầu tư theo hình thức đầu tư tư nhân thay vì đề xuất áp dụng cơ chế đối tác công – tư (PPP).
Để thu hút nhiều hơn nguồn lực xã hội cho phát triển kinh tế đất nước
Khi môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn, nguồn lực xã hội sẽ tự động tìm đến và trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của đất nước. Điều này không chỉ giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống. Vì vậy cần thực hiện một cách đồng bộ và quyết liệt nhiều giải pháp, trong đó ưu tiên hoàn thiện thể chế, chính sách.
1. Cần ưu tiên rà soát cắt giảm các điều kiện kinh doanh không cần thiết
Một môi trường kinh doanh thông thoáng, ít rào cản sẽ là động lực quan trọng để Việt Nam thu hút đầu tư, thúc đẩy đổi mới và phát triển bền vững. Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong cải cách thủ tục hành chính và môi trường kinh doanh. Dù đã giảm đáng kể (sau khi có Luật 57/2024), nhưng con số hơn 200 ngành nghề kinh doanh có điều kiện vẫn là một gánh nặng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV, khi họ phải dành nhiều thời gian và nguồn lực để đáp ứng các điều kiện này. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu để loại trừ các điều kiện không cần thiết,đểthực sự tạo động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế. Muốn vậy cần phải thay đổi tư duy về cách tiếp cận điều kiện kinh doanh.
+ Cần linh hoạt về quy định điều kiện: Trong lĩnh vực hạ tầng thì yêu cầu kinh nghiệm của doanh nghiệp, nhà đầu tư là cần thiết nhưng cũng có một số lĩnh vực không cần thiết đặt ra điều kiện này. Tại buổi tọa đàm với doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp về thực hiện Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, ngày 31/5, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, các cơ quan quản lý nhà nước phải phân biệt rõ ràng về điều kiện, tiêu chuẩn của nhà đầu tư với điều kiện, tiêu chuẩn của nhà thầu. Nhà đầu tư có tiền thì có thể đầu tư bất kỳ lĩnh vực nào có hiệu quả, lợi nhuận, nên không cần phải có kinh nghiệm.

Tại Chỉ thị 05/CT-TTg ngày 01/3/2025, Thủ tướng yêu cầu bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết trong năm 2025
+ Đơn giản hóa và minh bạch hóa điều kiện:Các điều kiện kinh doanh phải được cụ thể hóa, dễ hiểu, dễ thực hiện và minh bạch. Cần loại bỏ những điều kiện mang tính hình thức, không có ý nghĩa thực tiễn hoặc tạo ra “giấy phép con”. Nói cách khác, đơn giản hóa là làm cho các quy định gọn nhẹ và dễ thực hiện, còn minh bạch hóa là làm cho các quy định đó rõ ràng và dễ tiếp cận. Ví dụ: Trước đây, để kinh doanh dịch vụ internet công cộng (quán net), có thể yêu cầu khoảng cách tối thiểu từ trường học hoặc diện tích phòng máy cụ thể. Hiện tại, với sự phổ biến của internet và quản lý hành vi trên không gian mạng tốt hơn, những điều kiện này có thể được xem xét bãi bỏ hoặc nới lỏng để không cản trở sự phát triển của các mô hình kinh doanh nhỏ lẻ.
+ Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm điều kiện:Theo đó thay vì yêu cầu doanh nghiệp phải chứng minh đủ điều kiện trước khi được phép bắt đầu hoặc tiếp tục hoạt động kinh doanh trong một ngành nghề cụ thể (mục đích là để ngăn chặn rủi ro tiềm ẩn ngay từ đầu), khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian, chi phí, công sức để hoàn thành thủ tục tiền kiểm, làm chậm quá trình khởi nghiệp và phát triển; cho phép doanh nghiệp được tự do hoạt động kinh doanh (chỉ cần đăng ký kinh doanh theo quy định chung) và tập trung vào việc kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm sau khi hoạt động đã diễn ra.
Đây là một trong những thay đổi tư duy cốt lõi và quan trọng nhất trong công tác quản lý nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Chuyển từ tiền kiểm sang sang hậu kiểm sẽ khuyến khích khởi nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng đi vào hoạt động; thúc đẩy cạnh tranh và đổi mới vì doanh nghiệp có thể thử nghiệm các mô hình kinh doanh mới mà không bị kìm hãm bởi thủ tục hành chính; giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp; tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp vì doanh nghiệp biết mình phải tự giác tuân thủ để tránh bị xử phạt.
2. Tiếp tục hướng đến cân bằng lợi ích và sự yên tâm của nhà đầu tư
Trong bối cảnh Việt Nam đang tìm cách huy động nguồn lực tư nhân cho các dự án hạ tầng lớn, để Luật PPP thực sự phát huy hiệu quả, cần ưu tiên sửa đổi những vấn đề cốt lõi nhằm tăng tính hấp dẫn cho nhà đầu tư, giảm thiểu rủi ro, và nâng cao hiệu quả triển khai dự án. Đó là:

Nhà đầu tư PPP vẫn chưa yên tâm về cơ chế bảo đảm, bảo lãnh của nhà nước (Ảnh minh họa)
+ Cơ chế chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và nhà đầu tư: Đây là một trong những điểm yếu lớn nhất của Luật PPP hiện hành, khiến nhà đầu tư còn ngần ngại. Từ phân tích trên, thiết tưởng cần ưu tiên mở rộng và làm rõ các cơ chế bảo đảm, bảo lãnh của nhà nước. Ví dụ, cơ chế bảo lãnh về nghĩa vụ thanh toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (đối với các loại hợp đồng BTL, BLT), bảo đảm về nghĩa vụ của bên thứ ba (cung cấp nguyên liệu, dịch vụ đầu vào). Làm rõ và linh hoạt hơn cơ chế chia sẻ doanh thu giảm/tăng theo hướng cần quy định ngưỡng chia sẻ hợp lý, phù hợp với từng loại hình dự án và mức độ rủi ro, không quá cứng nhắc như hiện tại. Việc chia sẻ rủi ro phải thực chất, giúp nhà đầu tư nhìn thấy khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý khi rủi ro xảy ra, thay vì chỉ là hình thức. Nghiên cứu áp dụng cơ chế bảo hiểm rủi ro: Có thể xem xét các cơ chế bảo hiểm rủi ro chính sách, rủi ro thu nhập do thay đổi quy hoạch...
+ Cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa: Quy trình lựa chọn nhà đầu tư PPP hiện nay còn phức tạp, kéo dài, thiếu minh bạch ở một số khâu, và chưa thực sự thu hút được nhà đầu tư có năng lực. Đề xuất ưu tiên sửa đổi theo hướng đơn giản hóa quy trình đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư. Đơn giản hóa không có nghĩa là bỏ qua các bước quan trọng, mà là tối ưu hóa, tinh giản thủ tục hoặc song song hóa các công đoạn để tiết kiệm thời gian mà vẫn đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả. Thay vì thực hiện tuần tự, có thể xem xét cho phép các cơ quan đồng thời thẩm định BCNCKT và các nội dung liên quan đến chủ trương đầu tư.
Đối với các dự án PPP quy mô nhỏ hoặc trung bình, có thể cân nhắc phân cấp thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư xuống cấp tỉnh, giảm tải cho Chính phủ và Quốc hội. Rà soát và loại bỏ các tiêu chí đánh giá không thực sự cần thiết hoặc quá chi tiết, phức tạp gây khó khăn cho nhà đầu tư khi chuẩn bị hồ sơ và cho tổ chuyên gia khi đánh giá. Tập trung vào các tiêu chí cốt lõi về năng lực, kinh nghiệm, và hiệu quả tài chính. Quy định rõ ràng thời gian tối đa cho quá trình đàm phán. Nếu quá thời hạn mà các bên không đạt được thỏa thuận, có thể xem xét các phương án dự phòng.
+ Thiết lập cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật: Trách nhiệm pháp lý của nhà nước trong việc giải ngân vốn đúng hạn cần được quy định rõ ràng, kèm theo chế tài xử phạt như tính lãi suất với phần vốn chậm giải ngân. Đồng thời, cần định nghĩa cụ thể quyền sở hữu và khai thác của nhà đầu tư đối với công trình hạ tầng, bao gồm thời hạn khai thác và các điều kiện kèm theo. Việc này sẽ giúp nhà đầu tư yên tâm lập kế hoạch dài hạn, đồng thời tạo sự công bằng trong phân chia quyền lợi giữa nhà nước và tư nhân. Từ hiện trạng, nhiều chuyên gia cho rằng cần thiết lập các cơ chế giám sát và hỗ trợ để đảm bảo chất lượng và sự tuân thủ pháp luật. Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế “một cửa” để xử lý toàn bộ thủ tục liên quan đến PPP sẽ giúp giảm thiểu gánh nặng hành chính cho nhà đầu tư.
34 dự án luật dự kiến sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV gồm:
1. Bộ luật Hình sự (sửa đổi); 2. Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân (trường hợp đủ điều kiện thì xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 9); 3. Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi); 4. Luật Công nghiệp công nghệ số; 5. Luật Hóa chất (sửa đổi); 6. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; 7. Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi); 8. Luật Nhà giáo; 9. Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi); 10. Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp; 11. Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi); 12. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi);13. Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (trường hợp chuẩn bị tốt, đủ điều kiện thì xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 9); 14. Luật Thanh tra (sửa đổi); 15. Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi); 16. Luật Việc làm (sửa đổi); 17. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; 18. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự; 19. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; 20. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; 21. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng; 22. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; 23. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp; 24. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư; Luật Hải quan; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Đầu tư; Luật Đầu tư công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; 25. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo; 26. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam; 27. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch; 28. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; 29. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; 30. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; 31. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; 32. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân; 33. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính; 34. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Bên cạnh đó, Quốc hội xem xét, thông qua các dự thảo nghị quyết bao gồm:
1. Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân; 2. Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để đầu tư phát triển hệ thống đường sắt; 3. Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội; 4. Nghị quyết của Quốc hội về miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; 5. Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt, tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; 6. Nghị quyết của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi; 7. Nghị quyết của Quốc hội về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định tại Nghị quyết 55/2010/QH12 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết 28/2016/QH14 và Nghị quyết 107/2020/QH14; 8. Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nội quy kỳ họp Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết 71/2022/QH15 của Quốc hội; 9. Nghị quyết của Quốc hội về việc thí điểm Viện kiểm sát nhân dân khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương hoặc bảo vệ lợi ích công; 10. Nghị quyết của Quốc hội thay thế Nghị quyết 35/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng; 11. Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng.
Ngoài ra, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV sẽ xem xét, thông qua Nghị quyết của Quốc hội về sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh; Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2026; Nghị quyết Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.
Minh Trung
Theo Phaply.net.vn