Ai cũng biết câu nói: Ăn để sống, không ai sống để ăn. Có thể coi đây là cách “văn chương hóa" một vấn đề mang tính triết học để nó dễ đọng lại trong lòng người: mối quan hệ giữa nhu cầu và mục đích.
Nói cách khác, mọi sinh vật đều có nhu cầu ăn để sống, nhưng mục đích sống của con người không phải để mà ăn. Trong văn chương, cũng có chuyện tương tự. Ai cũng biết: cách tân, tìm cái mới, cái lạ là nhu cầu phát triển tự thân của văn chương. Nhưng tìm cái mới, cái lạ không phải là mục đích của văn chương.
Đào Tấn viết: Lao xao sóng vỗ ngọn tùng/ Gian nan là nợ anh hùng phải vay. Chắc không ai phản đối khi cho rằng đây là câu thơ rất hay, rất “cách tân” khi liên tưởng gió thổi ngọn tùng dập dờn như sóng vỗ; nghĩ sâu hơn nữa là ý tưởng: anh hùng là người phải vượt biết bao gian nan. Sóng vỗ ngọn tùng có thể ví như sự cách tân nhưng anh hùng phải vượt gian nan mới là đích đến của câu thơ. Nếu nhớ lại hơn nửa ngàn năm trước, Nguyễn Trãi cũng đã viết về cái ý: Trải nạn lớn thì thành công kỳ hay chữ tùng đào (sóng tùng) có từ xưa trong tiếng Hán, thì sẽ gặp câu hỏi: vậy sự cách tân nằm ở đâu? Ở hình thức hay ở nội dung tác phẩm? Đành rằng hình thức có khi lại chuyển hóa thành nội dung. Như Tống biệt, bài thơ toàn bích của Tản Đà: Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai/Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi... cùng đề tài và chủ đề nhưng “mới” và hay hơn hẳn so với Ân cần tương tống xuất Thiên Thai của Tào Đường; hay Tiếng thu của Lưu Trọng Lư... Con nai vàng ngơ ngác/Đạp trên lá vàng khô... Người đọc không cần phân tích đâu là hình thức đâu là nội dung, cách tân ở đâu, truyền thống ở đâu, chỉ biết các bài ấy rất hay, đi ngay vào và ở lại trong lòng người. Tuy nhiên, trong văn chương, hình thức và nội dung dù luôn hòa quyện hữu cơ nhưng không phải lúc nào cũng đồng nhất. Vậy nên triết học cứ phải bàn về “cặp phạm trù” này và chấp nhận “nội dung quyết định hình thức". Vì vậy, nói đến cách tân thì Cái đẹp không toàn vẹn nếu không có cái đẹp về đạo trước hết nên xét đến cách tân về nội dung. Việc này có nghĩa là tìm tòi ý tưởng mới lạ đáng chú trọng hơn là tìm sự mới lạ về hình thức thể hiện. Những bài thơ “leo thang”, “quả trám”, “vành khăn”, “lỗ thủng" v.v... tuy mới lạ về hình thức nhưng so với hình thức thơ “chức cẩm hồi văn” của bà Tô Huệ hơn hai ngàn năm trước thì chỉ là “toán cấp 1” so với “toán cấp 3”.
![]() |
Hình ảnh minh họa. Nguồn Internet |
Thật ra thì người viết nào cũng đau đáu phải tự đổi mới mình, tìm tòi cái mới lạ. Vì đó là nhu cầu tự thân, “cách tân hay là chết luôn”. Rất nhiều người đi tìm cái mới trong ý tưởng, trong nội dung tác phẩm của mình và đã gặt hái được rất nhiều thành công, một số tác phẩm ra đời gần đây đã mang hơi hướng của xu hướng cách tân rất mới hiện nay ở phương Tây là chủ nghĩa tân cổ điển... Nhưng tiếc thay, hướng cách tân này ít được chú ý phát hiện, cổ vũ. Trái lại, hiện nay, nghĩ về chuyện cách tân, người ta hay nghĩ đến đổi mới hình thức, cách viết, trình bày sao cho mới lạ, khác thường, và thường cổ vũ một chiều cho những tác phẩm viết theo chủ nghĩa hậu hiện đại với hướng “khai thác tiềm thức"..., những cái mà phương Tây đang “chán” và đang đi đến hồi cuối của luật hóa sinh. Vì hiện có một trào lưu cách tân mới là chủ nghĩa tân cổ điển, ra đời cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, đang phát triển mạnh mẽ ở Mỹ, đã ra “tuyên ngôn”, và hứa hẹn sẽ thay thế chủ nghĩa hiện đại và “tái bút của nó là chủ nghĩa hậu hiện đại”. Đây là một “cuộc cách mạng chống lại cái xấu và sự hỗn mang về đạo đức - và sự ngu ngốc trí tuệ tội nghiệp - của cảnh tượng nghệ thuật đương đại” (F.Turner, Nguyễn Tiến Văn dịch, viettems.com). Điều chủ chốt trong xu hướng này là “sự tôn trọng các giá trị tâm linh và nhân bản vĩnh hằng như chân, thiện, mỹ, và đề ra sự phục hoạt cho cả loài người sau năm thế kỷ thống trị của phương Tây”. Frederick Turner là một trong những đại biểu kiệt xuất của xu hướng này (sinh năm 1943, là giáo sư tước hiệu Những Sáng lập viên về Nghệ thuật và Nhân văn thuộc viện Đại học Texas ở Dallas, Hoa Kỳ; cho đến khi viết Tuyên ngôn năm 1995, ông đã là tác giả của 16 cuốn sách gồm cả thơ, phê bình và tiểu thuyết). Theo tân cổ điển thì “Chức năng của nghệ thuật là sáng tạo cái đẹp. Cái đẹp không toàn vẹn nếu không có cái đẹp về “đạo đức", hiểu “nôm na" thì tân cổ điển là sự “trở lại” với Chân Thiện Mỹ, và bắt gặp... phương Đông. Tân cổ điển chủ trương bảy "tái hợp", trong đó có: tái hợp của cái đẹp và đạo đức, tái hợp của nhiệt tình và trí tuệ, tái hợp của nghệ thuật với khoa học, tái hợp của quá khứ với tương lai... Về thủ pháp nghệ thuật thì “trở về những hình thức, loại hình, và kỹ thuật truyền thống” vì “dần dà những thủ thuật này (của các chủ nghĩa hiện đại, hậu hiện đại) người ta cũng chán và chúng ta sẽ quay trở và với cách kể chuyện thông thường" (Borges). Có thể hiểu rằng sự cách tân lần này là vì “người ta đã chán” "cái xấu và sự hỗn mang về đạo đức của cảnh tượng nghệ thuật đương đại” nên phải tìm về chân thiện mỹ, trên cái vòng xoắn ốc cao hơn, sau mấy thế kỷ tìm tòi “thiên biến, vạn biến”. Lần cách tân này là “cuộc cách mạng” “sự tuyên ngôn và hành động mạnh mẽ của lương tri (chứ không phải tiềm thức), "lấy đẹp dẹp xấu”, đưa văn chương về mục đích ban đầu khi loài người sáng tạo ra nghệ thuật: tạo ra cái đẹp và hướng về cái cao thượng để nâng bước cho con người trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.... Vì vậy, nó lan rộng nhanh và đang được ủng hộ mạnh mẽ. Charles Jencks, nhà phê bình hậu hiện đại, đã thốt lên: “Cái đẹp trở lại”... The Ung Reader, một tạp chí tiền vệ hàng đầu đã phát biểu một cách chua chát: “đang có một sự phục hoạt kinh điển nó đe doạ chôn vùi lớp tiền vệ”...
Thơ văn hay là thứ đi thẳng vào lòng người, cảm nhận trước, suy xét sau. Nếu cứ xem xét thơ văn theo “lệ phí” “có cái gì lạ không" thì mới được lựa chọn, hoặc cứ phân tích, giảng giải ồn ào cái hay của thơ cách tân theo lý thuyết của những chủ nghĩa mà “người ta đã chán” nhưng người đọc vẫn không thấy nó hay thì quả là nó... chưa hay. Nhà văn dành cả đời mình để tìm tòi cách tân là rất đáng trân trọng, còn thành công hay chưa thành công vừa tùy thuộc vào tài năng lại vừa tùy thuộc vào thời đại và công chúng... Cách tân là nhu cầu phát triển tự thân của văn chương, chứ cách tân không phải là mục đích của việc sáng tác văn chương. Nếu lầm lẫn giữa nhu cầu và mục đích thì sẽ dẫn dắt văn chương vào mê lộ. Nhu cầu cách tân vận động theo hướng “mới thay cũ”, “sinh rồi hóa", và trước sự biến đổi mới cũ ngày càng nhanh của thời đại thì cách lựa chọn hợp qui luật nhất là: nắm chắc mục đích, “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Vì văn chương cần cách tân để phục vụ mục đích cao đẹp của mình, chứ văn chương không sống chỉ để mà... “cách tân".