
Sớm nghiên cứu xây dựng Luật Phát triển kinh tế tư nhân để thể chế hóa đầy đủ chủ trương Nghị quyết 68
Trong bài viết Động lực mới cho phát triển kinh tế, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết Nghị quyết 68 định hình quan điểm mới của Đảng về thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân - một động lực quan trọng nhất phát triển kinh tế thời gian tới.
Song để phát triển kinh tế tư nhân, theo Tổng Bí thư vấn đề cốt lõi là tiếp tục hoàn thiện thể chế, thay đổi về tư duy và hành động. Ông yêu cầu Việt Nam cần sớm nghiên cứu xây dựng Luật Phát triển kinh tế tư nhân và sửa các quy định liên quan, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ chủ trương tại Nghị quyết 68.
"Việt Nam cần thiết lập hệ thống cạnh tranh công bằng, xác định rõ danh sách các hành vi tác động tiêu cực đến tiếp cận thị trường và phân biệt đối xử trong cạnh tranh với kinh tế tư nhân", Tổng Bí thư nêu.
Cơ quan quản lý cần thiết lập hệ thống bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường, phân biệt giữa tranh chấp kinh tế và tội phạm hình sự, nghiêm cấm các hành vi lạm dụng pháp luật trong quản lý thị trường.
Các quy định phải tạo cơ chế thúc đẩy đầu tư, tài chính, trong đó tổ chức tài chính có hệ thống đánh giá tín dụng phù hợp và hỗ trợ cho khu vực tư. Các doanh nghiệp được khuyến khích phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt doanh nghiệp tư nhân cần đi đầu trong các dự án lớn, trọng điểm quốc gia và hạ tầng nghiên cứu đổi mới sáng tạo.
Để phát triển kinh tế tư nhân, theo Tổng Bí thư vấn đề cốt lõi là tiếp tục hoàn thiện thể chế, thay đổi về tư duy và hành động. Ông yêu cầu Việt Nam cần sớm nghiên cứu xây dựng Luật Phát triển kinh tế tư nhân và sửa các quy định liên quan, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ chủ trương tại Nghị quyết 68.
"Việt Nam cần thiết lập hệ thống cạnh tranh công bằng, xác định rõ danh sách các hành vi tác động tiêu cực đến tiếp cận thị trường và phân biệt đối xử trong cạnh tranh với kinh tế tư nhân", Tổng Bí thư nêu.
Các biện pháp đưa ra nhằm hỗ trợ dịch vụ thủ tục và chính sách cho kinh tế tư nhân, chuẩn hóa các thủ tục hành chính và chính sách. Bộ luật Hình sự phải được sửa đổi, tách bạch rõ hành vi gian lận và trục lợi với sai sót hành chính thông thường.
Việt Nam hiện có trên 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách, 82% lao động và khoảng 50% GDP.

Quốc hội thảo luận cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân
Tại kỳ họp thứ 9 đang diễn ra, Quốc hội sẽ thảo luận và ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân với các cơ chế, chính sách ưu đãi cụ thể, khả thi, hiệu quả. Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai Nghị quyết 68 được lập, do Thủ tướng làm Trưởng ban, định kỳ hàng tháng rà soát, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết của các bộ ngành, địa phương.
Tổng Bí thư lưu ý không để xảy ra tình trạng lúng túng, thực hiện theo cách riêng gây mất hiệu lực chính sách của Trung ương. Kết quả thực hiện phải được công khai, là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực, trách nhiệm, đặc biệt với người đứng đầu. Cùng với đó, tư duy hành chính phải đổi mới từ kiểm soát sang đồng hành, coi doanh nghiệp là đối tượng "phục vụ" thay vì "quản lý", "nói đi đôi với làm" thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
Chính phủ sớm ban hành Chỉ thị yêu cầu các bộ ngành, địa phương chuyển quy trình hành chính sang hậu kiểm, trừ một số lĩnh vực đặc thù (an ninh, quốc phòng...). Các cơ quan có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm công vụ của người đứng đầu, chính quyền các cấp trong hỗ trợ doanh nghiệp và chuẩn hóa toàn bộ quy trình cấp phép đầu tư, rút ngắn thời gian công bố kết quả.
Ngoài các doanh nghiệp lớn, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh phải quan tâm doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, thúc đẩy tư tưởng khởi nghiệp, khát vọng làm chủ của họ, đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo. Theo đó, nhà điều hành cần triển khai ngay gói tín dụng ưu đãi riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng Nhà nước.
Các khu công nghiệp dành quỹ đất ưu tiên 5-10% và giá thuê ưu đãi cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Khung pháp lý cho mô hình sandbox cũng cần được mở rộng, cho phép thử nghiệm thực tế với fintech, AI, nông nghiệp số trong khung thời gian rõ ràng. Chính quyền xây dựng trung tâm tư vấn pháp lý miễn phí hoặc trợ giá cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương.
Cuối cùng theo Tổng Bí thư, Việt Nam cần xây dựng đội ngũ doanh nhân thật sự là "chiến sĩ" trên mặt trận kinh tế. Họ cần được tạo điều kiện khi tham gia phản biện, hoạch định chính sách.
Ngoài ra, các bộ ngành khi xây dựng luật, nghị định cần lắng nghe ý kiến của người dân, doanh nghiệp, nhất là doanh nhân. Việc thành lập Hội đồng doanh nhân tư nhân quốc gia được khuyến khích, để tư vấn trực tiếp cho Chính phủ trong chiến lược kinh tế - công nghiệp dài hạn.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh phải quan tâm doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, thúc đẩy tư tưởng khởi nghiệp, khát vọng làm chủ của họ, đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo. Theo đó, nhà điều hành cần triển khai ngay gói tín dụng ưu đãi riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng Nhà nước. Các khu công nghiệp dành quỹ đất ưu tiên 5-10% và giá thuê ưu đãi cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
Khung pháp lý cho mô hình sandbox cũng cần được mở rộng, cho phép thử nghiệm thực tế với fintech, AI, nông nghiệp số trong khung thời gian rõ ràng. Chính quyền xây dựng trung tâm tư vấn pháp lý miễn phí hoặc trợ giá cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương.
Cuối cùng theo Tổng Bí thư, Việt Nam cần xây dựng đội ngũ doanh nhân thật sự là "chiến sĩ" trên mặt trận kinh tế. Họ cần được tạo điều kiện khi tham gia phản biện, hoạch định chính sách.
Khung pháp lý cho mô hình Sandbox cần được mở rộng, tạo không gian an toàn để thử nghiệm các mô hình, công nghệ mới
Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành tháng 12/2024 xác định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là đột phá chiến lược để phát triển nhanh và bền vững. Một trong những giải pháp được nhấn mạnh chính là xây dựng sandbox, tạo không gian an toàn để thử nghiệm các mô hình, công nghệ mới.
Tiếp đó, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân lần đầu tiên nêu rõ: Ban hành khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) đối với công nghệ mới, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới; tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, dữ liệu lớn, thương mại điện tử, công nghệ tài chính, y tế thông minh...
Cả hai văn kiện chiến lược của Bộ Chính trị là Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW đều nhắc đến "sandbox" như một công cụ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững.

Cơ chế sandbox sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và nhà nghiên cứu thử nghiệm các mô hình AI mới. Ảnh minh họa
Trong lĩnh vực công nghệ, sandbox được hiểu là một môi trường thử nghiệm được tách biệt khỏi hệ thống chính. Nó cho phép các lập trình viên, kỹ sư phần mềm chạy thử ứng dụng, mã lập trình hoặc các tính năng mới mà không lo ảnh hưởng đến hệ thống vận hành thực tế. Giống như việc trẻ con chơi trong hộp cát mà không sợ làm bẩn cả khu vườn, sandbox giúp các kỹ sư, lập trình viên kiểm tra tính năng mới, phát hiện lỗi, hoặc chạy các phần mềm đáng ngờ một cách an toàn. "Sandbox" đang dần trở thành từ khóa then chốt trong quá trình phát triển công nghệ và kinh tế số trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Xuất phát từ lĩnh vực công nghệ, khái niệm sandbox đã mở rộng sang lĩnh vực tài chính và chính sách.
Từ fintech, blockchain, trí tuệ nhân tạo đến y tế, giáo dục, giao thông thông minh, cơ chế sandbox có thể trở thành "bàn đạp" để Việt Nam bứt phá, bắt kịp và thậm chí dẫn đầu một số lĩnh vực. Tuy nhiên, sandbox không phải "chìa khóa vạn năng". Để thành công, nó đòi hỏi tiêu chí rõ ràng, cơ chế giám sát chặt chẽ, lộ trình chuyển tiếp ra khung pháp lý chính thức. Việt Nam hiện mới bắt đầu áp dụng sandbox chủ yếu trong fintech, nhưng tiềm năng mở rộng ra các ngành khác là rất lớn. Mở cơ chế sandbox, chúng ta sẽ mở ra cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, đặc biệt đối với công nghệ mới, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới.
Trên thế giới, "regulatory sandbox" (khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát) là mô hình thử nghiệm dưới sự giám sát của cơ quan quản lý, cho phép doanh nghiệp kiểm tra sản phẩm, dịch vụ mới (đặc biệt trong lĩnh vực fintech - công nghệ tài chính, blockchain - công nghệ chuỗi khối) mà chưa cần tuân thủ toàn bộ quy định pháp lý hiện hành. Mô hình này đã được áp dụng thành công tại Anh, Singapore từ 2016 - 2017, và lan rộng ra hơn 50 quốc gia.
Tại Úc, khung pháp lý thử nghiệm Sandbox đã được Chính phủ Úc áp dụng cho các Fintech từ năm 2016. Được xây dựng bởi Ủy ban quản lý chứng khoán và đầu tư Úc (ASIC), khung pháp lý này được triển khai dưới dạng miễn trừ giấy phép, trong đó các công ty Fintech sẽ được giảm bớt một số điều kiện xin giấy phép so với các doanh nghiệp bình thường.
Đến năm 2020, theo thống kê của Ngân hàng Thế giới cho thấy hơn 60, quốc gia đã và đang áp dụng cơ chế thử nghiệm và có 73 loại cơ chế thử nghiệm cho các công ty về phát triển công nghệ tài chính (Fintech).
Các giải pháp quản lý, giám sát đổi mới sáng tạo trong khu vực tài chính ngân hàng mà chính phủ Anh, Singapore, một số quốc gia đã, đang trên con đường phát triển và cũng còn nhiều thách thức. Cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát rõ ràng là giải pháp phản ứng linh hoạt trong bối cảnh bùng nổ của công nghệ và đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan trong đó có tăng cường phúc lợi xã hội; là hình mẫu mới về quản lý theo cái gọi là “hệ sinh thái” (ecosytem); theo đó có nhiều bên liên quan và ở đó các bên tham gia “cuộc chơi” cùng tồn tại có tương tác, cùng học hỏi và cùng có lợi... Cho dù vậy, “regulatory sandbox” vẫn chưa thể coi là chìa khóa vạn năng, hiện đang được áp dụng theo từng quốc gia và có thời hạn...
Tại Việt Nam, cho đến nay, tại Việt Nam vẫn đang quá trình xây dựng dự thảo Nghị định Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (Fintech) chưa quy định chính sách chung về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Do đó, cơ quan chức năng đã đề nghị quy định nội dung này trong Luật công nghiệp công nghệ số nhằm ban hành càng sớm càng tốt cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox) toàn diện, với quan điểm đột phá là khuyến khích, chấp nhận các đột phá cho phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới; các mô hình kinh doanh mới; không cản trở sự sáng tạo và tính cách mạng trong hệ thống tài chính và nền kinh tế trong nước.
Cùng với ban hành sandbox, giải pháp thích ứng và hấp thụ công nghệ mới cho phát triển, các chính sách hỗ trợ, khuyến khích nghiên cứu phát triển dài hạn cũng cần được khuyến khích, bắt đầu như một giải pháp hấp thụ công nghệ có chiều sâu, đảm bảo nền kinh tế và xã hội vững chắc phát triển, tránh bị các cú sốc tiêu cực.
Cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát là đòi hỏi cho sự phát triển của khoa học và công nghệ. Với Việt Nam, hấp thụ công nghệ cho sự phát triển của đất nước là chủ trương, định hướng nhất quán của Đảng và nhà nước. Cho ra đời cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm soát rõ ràng là khó khăn không chỉ đối với Việt Nam, đòi hỏi sự vào cuộc của nhiều bên tham gia, của nhiều cơ quan bộ ngành và cần nhận thức đột phá, chấp nhận công nghệ mới, chấp nhận đổi mới sáng tạo trên cơ sở liên kết nhiều chiều, nhiều phía, nhất là trên phương diện lập chính sách mới trong thời đại như ngày nay, theo cách thức “cấu trúc liên thông” mà không vì một khu vực đơn lẻ nào.
Sandbox mang đến ba lợi ích then chốt: giảm thiểu rủi ro, nuôi dưỡng sáng tạo và thúc đẩy cải cách pháp lý. Nó giúp thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ mới trong môi trường kiểm soát, hạn chế tác động tiêu cực ra bên ngoài, tạo không gian để các doanh nghiệp, nhà sáng tạo, lập trình viên dám nghĩ, dám làm, thử nghiệm ý tưởng táo bạo. Điều quan trọng nhất là nó giúp nhà quản lý nhìn nhận thực tiễn, điều chỉnh chính sách dựa trên dữ liệu thử nghiệm, thay vì xây dựng luật "trên giấy"; nó cho phép thử nghiệm mô hình mới trước khi mở rộng quy mô. Mở cơ chế sandbox, chúng ta sẽ mở ra cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, đặc biệt đối với công nghệ mới, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới.
Cần một Luật riêng cho trung tâm tài chính
Hiện nay, Việt Nam đang dần hội tụ các yếu tố cần thiết để phát triển thị trường tài chính hiện đại, hướng đến hình thành Trung tâm tài chính có khả năng liên kết với các Trung tâm tài chính trong khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, mong muốn xây dựng Trung tâm tài chính tại Việt Nam là một tham vọng táo bạo nhưng cần thiết để định hình tư duy phát triển cho đất nước trong giai đoạn tiếp theo.

TP.HCM đang xem xét phương án Trung tâm tài chính quốc tế được phát triển dựa trên khu phố tài chính ở Quận 1 và khu phố tài chính ở Thủ Thiêm (nguồn ảnh: Lương Ý – VTC News)
Trung tâm tài chính phải xây dựng cho mình một hệ thống dịch vụ tài chính hoàn chỉnh, có sức cạnh tranh cao để thu lợi từ đó, bao gồm các dịch vụ như: ngân hàng, sàn giao dịch chứng khoán và các loại tài sản khác, kiểm toán, tài chính công nghệ, thuế, luật và giải quyết tranh chấp.
Trước mắt, việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm tài chính tại Việt Nam là hết sức cần thiết để hình thành Trung tâm tài chính khu vực, quốc tế thành công; giúp Việt Nam kết nối thị trường tài chính toàn cầu; thu hút các tổ chức tài chính nước ngoài, tạo ra nguồn lực đầu tư mới, thúc đẩy nguồn lực đầu tư hiện hữu; tận dụng cơ hội dịch chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế. Đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường tài chính Việt Nam hiệu quả, bắt kịp chuẩn mực quốc tế; góp phần phát triển bền vững kinh tế đất nước, nâng cao vai trò, vị thế, uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó, bảo đảm quốc phòng an ninh, nhất là trong trong lĩnh vực tài chính từ sớm, từ xa và góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Trước đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất xây dựng dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm tài chính tại Việt Nam theo 03 nhóm chính sách gồm: thành lập Trung tâm tài chính và các cơ quan thuộc Trung tâm tài chính (gồm: Ủy ban quản lý điều hành, Ủy ban giám sát tài chính; Trung tâm trọng tài quốc tế); các chính sách áp dụng đối với Trung tâm tài chính; chính sách quản lý nhà nước đối với Trung tâm tài chính.
Cơ chế, chính sách vượt trội nhưng cũng phải được kiểm soát, giám sát chặt chẽ. Đối với chính sách về tài sản mã hoá, theo đại diện Ngân hàng, dù dự thảo Nghị quyết có những quy định vượt trội so quy định hiện hành nhưng các khái niệm được sử dụng trong dự thảo phải thống nhất với hệ thống pháp luật. Vì vậy, cần rà soát các khái niệm về tài sản mã hoá trong dự thảo Nghị quyết với quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật liên quan như Luật Công nghiệp công nghệ số.
Về tỷ lệ sở hữu nước ngoài và điều kiện đầu tư nước ngoài đối với việc cung cấp dịch vụ trong Trung tâm tài chính, các quy định này liên quan trực tiếp đến các cam kết thương mại và đầu tư của Việt Nam. Do đó, việc dự thảo Nghị quyết quy định không áp dụng hạn chế tỷ lệ sở hữu nước ngoài và điều kiện đầu tư nước ngoài tại Trung tâm tài chính cần được rà soát thêm để hạn chế rủi ro vi phạm các nghĩa vụ trong các hiệp định thương mại, hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam.
Ngoài ra, đại diện ngân hàng cũng đề xuất cần điều chỉnh lại thời điểm hình thành, triển khai mô hình ngân hàng số từ các ngân hàng thương mại để đồng bộ giữa đầu tư hạ tầng và vận hành.
Về thời điểm thành lập sàn giao dịch chuyên biệt, giao dịch bằng tài sản mã hoá, tiền mã hoá trong Trung tâm tài chính…, đại diện Bộ Tài chính đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá thêm về thực tiễn và khả năng hoàn thiện pháp lý liên quan để xây dựng lộ trình thực hiện phù hợp. Bên cạnh đó, phải có cơ chế ưu đãi vượt trội về thuế, phí cho Trung tâm tài chính; tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính để xác định mức ưu đãi theo định hướng của Đảng, Nhà nước và phù hợp với quy định về thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đối với việc quản lý nhà nước đối với Trung tâm tài chính quốc tế, nên quy định theo hướng Chính phủ quản lý thống nhất về hoạt động của Trung tâm tài chính quốc tế; các bộ, ngành, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, sẽ thực hiện các hoạt động quản lý cụ thể.
Bộ Tư pháp là cơ quan được giao thẩm định đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm tài chính tại Việt Nam.
Thứ trưởng Bộ tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhất trí việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm tài chính tại Việt Nam là cần thiết. Đồng thời nhấn mạnh, dự thảo Nghị quyết này phải xây dựng được các cơ chế, chính sách vượt trội, nâng cao tính cạnh tranh nhưng cũng phải được kiểm soát, giám sát chặt chẽ.
Đối với dự thảo Tờ trình, Thứ trưởng yêu cầu tập trung làm rõ vị trí, vai trò của Trung tâm tài chính đối với một nền kinh tế và so sánh với kinh nghiệm của các quốc gia đang phát triển khác.
Về nội dung chính sách, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu các ý kiến của thành viên Hội đồng thẩm định; đồng thời làm rõ nội hàm của từng nhóm chính sách đang dự kiến xây dựng. Bên cạnh đó, Thứ trưởng cũng cho ý kiến cụ thể về: tổ chức, cơ cấu của Trung tâm tài chính; cơ chế giải quyết tối giản, thuận lợi, tiếp cận với quốc tế; bộ máy điều hành, cách thức giám sát, quản lý nhà nước (tiền kiểm hay hậu kiểm, cái gì quản lý gián tiếp, cái gì quản lý trực tiếp); cơ chế thu thập thông tin; cơ chế thí điểm đột phá; cách thức hạn chế rủi ro…
Cần một Luật riêng cho trung tâm tài chính
Hiện nay, Việt Nam đang dần hội tụ các yếu tố cần thiết để phát triển thị trường tài chính hiện đại, hướng đến hình thành Trung tâm tài chính có khả năng liên kết với các Trung tâm tài chính trong khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, mong muốn xây dựng Trung tâm tài chính tại Việt Nam là một tham vọng táo bạo nhưng cần thiết để định hình tư duy phát triển cho đất nước trong giai đoạn tiếp theo.

TP.HCM đang xem xét phương án Trung tâm tài chính quốc tế được phát triển dựa trên khu phố tài chính ở Quận 1 và khu phố tài chính ở Thủ Thiêm (nguồn ảnh: Lương Ý – VTC News)
Trung tâm tài chính phải xây dựng cho mình một hệ thống dịch vụ tài chính hoàn chỉnh, có sức cạnh tranh cao để thu lợi từ đó, bao gồm các dịch vụ như: ngân hàng, sàn giao dịch chứng khoán và các loại tài sản khác, kiểm toán, tài chính công nghệ, thuế, luật và giải quyết tranh chấp.
Trước mắt, việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm tài chính tại Việt Nam là hết sức cần thiết để hình thành Trung tâm tài chính khu vực, quốc tế thành công; giúp Việt Nam kết nối thị trường tài chính toàn cầu; thu hút các tổ chức tài chính nước ngoài, tạo ra nguồn lực đầu tư mới, thúc đẩy nguồn lực đầu tư hiện hữu; tận dụng cơ hội dịch chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế. Đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường tài chính Việt Nam hiệu quả, bắt kịp chuẩn mực quốc tế; góp phần phát triển bền vững kinh tế đất nước, nâng cao vai trò, vị thế, uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó, bảo đảm quốc phòng an ninh, nhất là trong trong lĩnh vực tài chính từ sớm, từ xa và góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Trước đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất xây dựng dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm tài chính tại Việt Nam theo 03 nhóm chính sách gồm: thành lập Trung tâm tài chính và các cơ quan thuộc Trung tâm tài chính (gồm: Ủy ban quản lý điều hành, Ủy ban giám sát tài chính; Trung tâm trọng tài quốc tế); các chính sách áp dụng đối với Trung tâm tài chính; chính sách quản lý nhà nước đối với Trung tâm tài chính.
Cơ chế, chính sách vượt trội nhưng cũng phải được kiểm soát, giám sát chặt chẽ. Đối với chính sách về tài sản mã hoá, theo đại diện Ngân hàng, dù dự thảo Nghị quyết có những quy định vượt trội so quy định hiện hành nhưng các khái niệm được sử dụng trong dự thảo phải thống nhất với hệ thống pháp luật. Vì vậy, cần rà soát các khái niệm về tài sản mã hoá trong dự thảo Nghị quyết với quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật liên quan như Luật Công nghiệp công nghệ số.
Về tỷ lệ sở hữu nước ngoài và điều kiện đầu tư nước ngoài đối với việc cung cấp dịch vụ trong Trung tâm tài chính, các quy định này liên quan trực tiếp đến các cam kết thương mại và đầu tư của Việt Nam. Do đó, việc dự thảo Nghị quyết quy định không áp dụng hạn chế tỷ lệ sở hữu nước ngoài và điều kiện đầu tư nước ngoài tại Trung tâm tài chính cần được rà soát thêm để hạn chế rủi ro vi phạm các nghĩa vụ trong các hiệp định thương mại, hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam.
Ngoài ra, đại diện ngân hàng cũng đề xuất cần điều chỉnh lại thời điểm hình thành, triển khai mô hình ngân hàng số từ các ngân hàng thương mại để đồng bộ giữa đầu tư hạ tầng và vận hành.
Về thời điểm thành lập sàn giao dịch chuyên biệt, giao dịch bằng tài sản mã hoá, tiền mã hoá trong Trung tâm tài chính…, đại diện Bộ Tài chính đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá thêm về thực tiễn và khả năng hoàn thiện pháp lý liên quan để xây dựng lộ trình thực hiện phù hợp. Bên cạnh đó, phải có cơ chế ưu đãi vượt trội về thuế, phí cho Trung tâm tài chính; tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính để xác định mức ưu đãi theo định hướng của Đảng, Nhà nước và phù hợp với quy định về thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đối với việc quản lý nhà nước đối với Trung tâm tài chính quốc tế, nên quy định theo hướng Chính phủ quản lý thống nhất về hoạt động của Trung tâm tài chính quốc tế; các bộ, ngành, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, sẽ thực hiện các hoạt động quản lý cụ thể.
Bộ Tư pháp là cơ quan được giao thẩm định đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm tài chính tại Việt Nam.
Thứ trưởng Bộ tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhất trí việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm tài chính tại Việt Nam là cần thiết. Đồng thời nhấn mạnh, dự thảo Nghị quyết này phải xây dựng được các cơ chế, chính sách vượt trội, nâng cao tính cạnh tranh nhưng cũng phải được kiểm soát, giám sát chặt chẽ.
Đối với dự thảo Tờ trình, Thứ trưởng yêu cầu tập trung làm rõ vị trí, vai trò của Trung tâm tài chính đối với một nền kinh tế và so sánh với kinh nghiệm của các quốc gia đang phát triển khác.
Về nội dung chính sách, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu các ý kiến của thành viên Hội đồng thẩm định; đồng thời làm rõ nội hàm của từng nhóm chính sách đang dự kiến xây dựng. Bên cạnh đó, Thứ trưởng cũng cho ý kiến cụ thể về: tổ chức, cơ cấu của Trung tâm tài chính; cơ chế giải quyết tối giản, thuận lợi, tiếp cận với quốc tế; bộ máy điều hành, cách thức giám sát, quản lý nhà nước (tiền kiểm hay hậu kiểm, cái gì quản lý gián tiếp, cái gì quản lý trực tiếp); cơ chế thu thập thông tin; cơ chế thí điểm đột phá; cách thức hạn chế rủi ro…
Dự thảo Nghị quyết về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam cũng đã đề cập đến yêu cầu ưu tiên xây dựng và áp dụng chính sách pháp luật riêng cho Trung tâm tài chính.
Kinh nghiệm các quốc gia muốn xây dựng trung tâm tài chính thường chọn giải pháp tách biệt trung tâm này khỏi hệ thống luật pháp nội địa, và xây dựng một cơ chế pháp lý độc lập, hiện đại, dễ hiểu, dễ áp dụng. Đáng chú ý là hầu hết mô hình trung tâm tài chính thành công đều dựa trên nền tảng của common law - thông luật Anh quốc. Đây là một hệ thống pháp lý dựa trên tiền lệ xét xử, vô cùng uyển chuyển và linh hoạt nhưng cũng rất ổn định, đặc biệt là tính minh bạch cao và được các nhà đầu tư phương Tây - những người kiểm soát phần lớn dòng vốn toàn cầu - tin tưởng sâu sắc.
Ví dụ rõ nhất là Trung tâm tài chính quốc tế Astana (AIFC) ở Kazakhstan. Quốc gia này không chỉ dịch thuật lại luật của Anh mà còn mời thẩm phán người Anh sang làm việc, vận hành một hệ thống tòa án hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của tòa án nội địa Kazakhstan. Mọi văn bản được ban hành bằng tiếng Anh, mọi tranh chấp được xử lý theo logic và phương pháp của common law. Dù kết quả của AIFC còn nhiều tranh cãi, khó có thể phủ nhận rằng niềm tin về pháp lý mà họ tạo dựng đã giúp thu hút nhiều định chế tài chính toàn cầu bước đầu đặt chân vào khu vực Trung Á vốn bị xem là xa lạ và rủi ro.
Tương tự, Dubai International Financial Centre (DIFC) ở UAE cũng áp dụng mô hình common law, có tòa án riêng, luật riêng, quy tắc xử lý tranh chấp riêng - tách biệt hoàn toàn với luật Hồi giáo và bộ máy tư pháp nội địa vốn khá nghiêm khắc và khó dự đoán. Đây là yếu tố then chốt khiến DIFC trở thành trung tâm tài chính số một Trung Đông, thu hút hàng nghìn doanh nghiệp tài chính và ngân hàng đa quốc gia.
Nhiều ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam muốn đi trên con đường đó, thì không thể chỉ nói về chính sách tài khóa ưu đãi hay xây các khu trung tâm hiện đại. Việc quan trọng trước tiên là cần xem xét kỹ càng phương án xây dựng một hệ thống luật riêng biệt, độc lập, hiện đại, được quốc tế công nhận và có tính ổn định cao, đặt nền tảng trên hệ thống thông luật Anh. Khi ấy, trung tâm tài chính của Việt Nam mới có khả năng cạnh tranh trong một thế giới mà sự tin tưởng là đơn vị tiền tệ quan trọng nhất.
Lê Phúc
Theo Phaply.net.vn