Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo - bước đột phá trong việc thể chế hóa các Nghị quyết quan trọng của Đảng

Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) được Quốc hội khóa XV, kì họp thứ 9 thông qua là bước ngoặt trong quá trình hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam. Luật không chỉ tạo bước đột phá trong việc thể chế hóa các Nghị quyết quan trọng của Đảng mà còn định hình cách tiếp cận hoàn toàn mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo toàn xã hội, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, khuyến khích thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
1-1751015179.png

Việc Quốc hội thông qua Luật KH,CN&ĐMST được đánh giá là bước đột phá trong việc thể chế hóa các nghị quyết quan trọng của Đảng, nhất là Nghị quyết 57 về phát triển KH,CN&ĐMST. ( Ảnh minh họa )

Trong bối cảnh thế giới đang bước vào kỷ nguyên của tri thức, KH,CN&ĐMST trở thành động lực then chốt cho mọi quốc gia phát triển, với Việt Nam, việc ban hành Luật KH,CN&ĐMST không chỉ là yêu cầu cải cách pháp lý, mà còn là bước định hướng chiến lược, tạo nền tảng thể chế cho phát triển dựa vào trí tuệ Việt. Luật mới ra đời trong một thời điểm đặc biệt khi cả hệ thống chính trị xác định đổi mới sáng tạo là một trong ba đột phá chiến lược. Tư duy xây dựng luật lần này không đơn thuần là sửa đổi những nội dung kỹ thuật cũ, mà là “thiết kế lại” khung thể chế để vận hành một hệ sinh thái sáng tạo mở, liên thông và hướng tới thị trường

Luật ghi nhận và đề cao vai trò của đa dạng chủ thể

Luật KH,CN&ĐMST xác định rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng cùng với các khái niệm nền tảng như KH,CN&ĐMST, hệ sinh thái sáng tạo, nền tảng số và cơ sở dữ liệu quốc gia. Các nguyên tắc vận hành được thiết lập nhằm bảo đảm định hướng phát triển bền vững, tôn trọng tự do nghiên cứu, đề cao liêm chính khoa học và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Ngay từ đầu, luật đã lựa chọn phương thức quản lý theo hướng hậu kiểm, đồng thời nâng cao quyền tự chủ cho tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH,CN&ĐMST.

2-1751015186.jpg

Luật KH,CN&ĐMST khuyến khích sự tham gia chủ động của doanh nghiệp và nhà khoa học phát triển hệ sinh thái sáng tạo

Lần đầu tiên, đổi mới sáng tạo được pháp điển hóa như một lĩnh vực độc lập, có vị thế tương đương với KH&CN trong hệ thống pháp luật quốc gia. Đây là bước chuyển nhận thức quan trọng, thể hiện quan điểm coi đổi mới sáng tạo là chuỗi hoạt động liền mạch, từ hình thành ý tưởng, thử nghiệm đến ứng dụng vào thực tiễn và thương mại hóa.

Phạm vi điều chỉnh của luật cũng được mở rộng bao trùm các mô hình tổ chức mới, cơ chế sản xuất sáng tạo và phương thức quản trị đổi mới trong cả khu vực công và tư. Những hoạt động trước đây ít được pháp luật công nhận như sáng kiến cộng đồng, đổi mới trong dịch vụ công, ứng dụng công nghệ số… nay chính thức trở thành một phần cấu thành của hệ sinh thái sáng tạo quốc gia.

Luật ghi nhận và đề cao vai trò của đa dạng chủ thể, từ viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, tổ chức trung gian đến cộng đồng công nghệ mở và các tổ chức phi lợi nhuận. Qua đó, không chỉ khu vực công, mà toàn xã hội được huy động vào tiến trình đổi mới sáng tạo toàn diện.

Vai trò kiến tạo và cơ chế quản lý của Nhà nước : chuyển đổi mạnh từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm

Một trong những điểm nhấn về đổi mới thể chế là việc chuyển đổi mạnh từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm, tập trung vào minh bạch hóa quy trình, đánh giá kết quả và quản lý rủi ro thay vì can thiệp sâu vào hoạt động ban đầu. Đây là cách tiếp cận hiện đại, phù hợp với đặc trưng linh hoạt và thử nghiệm liên tục của lĩnh vực KH,CN&ĐMST.

Theo đó trong quản lý nhà nước, sẽ chuyển từ kiểm soát đầu vào sang đánh giá hiệu quả đầu ra, khuyến khích nghiên cứu hướng tới thực tiễn, chấp nhận rủi ro đi kèm với cơ chế quản trị rủi ro. Các tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu được trao quyền sở hữu kết quả để thương mại hóa và hưởng tối thiểu 30% thu nhập từ sản phẩm ứng dụng, đồng thời được miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân từ khoản thu nhập này. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ chịu trách nhiệm đo lường hiệu quả tổng thể, lấy kết quả làm căn cứ phân bổ nguồn lực và quyết định việc giao nhiệm vụ tiếp theo.

3-1751015186.jpg

Luật cho phép doanh nghiệp tham gia sandbox - cơ chế thử nghiệm công nghệ mới có kiểm soát

Luật cũng thiết lập cơ chế “thử nghiệm có kiểm soát” (sandbox), một công cụ pháp lý mới cho phép triển khai các mô hình, công nghệ hoặc chính sách mới trong khung thời gian và phạm vi giới hạn. Cách làm này tạo điều kiện để các sáng kiến công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo, blockchain, công nghệ y tế và giáo dục số được vận hành trong môi trường pháp lý an toàn trước khi áp dụng rộng rãi.

Đồng thời, luật thể hiện rõ nguyên tắc bảo vệ nhà khoa học và tổ chức chủ trì khi thực hiện đúng quy trình và quy định pháp luật, dù kết quả có thể không như kỳ vọng. Chính điều này góp phần nuôi dưỡng tinh thần dấn thân, sáng tạo và sẵn sàng thử nghiệm - những phẩm chất không thể thiếu trong một nền khoa học đổi mới và tiên phong.

Ngoài ra, vai trò kiến tạo của Nhà nước còn được thể hiện qua việc xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, phân bổ nguồn lực minh bạch và linh hoạt cho các nhiệm vụ KH,CN&ĐMST. Luật quy định rõ trách nhiệm tài trợ, hỗ trợ hạ tầng, bảo đảm môi trường thuận lợi để các tổ chức và cá nhân có thể triển khai sáng kiến một cách hiệu quả và an toàn.

Thúc đẩy phát triển thị trường KHCN, ĐMST 

Luật thiết lập cơ sở pháp lý thúc đẩy hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu và bảo hộ các hình thức chuyển giao công nghệ. Quyền sở hữu hoặc phân chia lợi ích kinh tế từ kết quả nghiên cứu được bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân theo mức độ đóng góp, qua đó khuyến khích sự tham gia chủ động từ phía nhà khoa học và doanh nghiệp.

Đặc biệt, luật đã tháo gỡ điểm nghẽn kéo dài nhiều năm liên quan đến cơ chế sở hữu kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước. Thay vì phải xin phép lại cơ quan cấp trên, tổ chức chủ trì được mặc nhiên giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu. Đây là bước tiến quan trọng giúp thúc đẩy ứng dụng thực tiễn và tăng tính minh bạch trong quản lý tài sản trí tuệ.

Luật đồng thời tạo điều kiện phát triển hệ sinh thái hỗ trợ thương mại hóa với các công cụ như sàn giao dịch công nghệ, tổ chức định giá tài sản trí tuệ, các trung tâm hỗ trợ chuyển giao... giúp kết nối hiệu quả giữa nghiên cứu và sản xuất - kinh doanh. Nhà khoa học được phép nhận lợi ích kinh tế trực tiếp từ sản phẩm trí tuệ, trong khi tỷ lệ phân chia doanh thu được quy định rõ ràng nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên.

4-1751015186.png

Ảnh minh họa

Về chuyển đổi số và hạ tầng dữ liệu quốc gia

Luật đã xác lập nền tảng số và hệ thống thông tin KH,CN&ĐMST quốc gia với mục tiêu tăng cường kết nối dữ liệu giữa các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Việc cập nhật dữ liệu định kỳ trở thành trách nhiệm của các đơn vị sử dụng ngân sách công. Đồng thời, khu vực ngoài nhà nước cũng được khuyến khích đóng góp thông tin theo nguyên tắc tự nguyện và minh bạch, qua đó mở rộng kho dữ liệu mở phục vụ cộng đồng nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.

Không chỉ là công cụ hỗ trợ quản lý, nền tảng dữ liệu còn đóng vai trò thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong toàn ngành. Luật đề cao tính tích hợp, chia sẻ và đồng bộ giữa các hệ thống thông tin, tạo điều kiện để các giải pháp công nghệ được triển khai nhanh chóng, hiệu quả và đúng định hướng. Thông qua việc số hóa quy trình quản lý, theo dõi và đánh giá hoạt động KH,CN&ĐMST, luật đặt nền móng cho một hạ tầng dữ liệu bền vững, linh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên số.

5-1751015186.jpg

Viettel đã quyết tâm thực hiện chiến lược "Make in Vietnam" - tự nghiên cứu sản xuất thiết bị hạ tầng viễn thông và hạ tầng số

Đầu tư hạ tầng, phát triển các trung tâm nghiên cứu trình độ cao

Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia; phát triển kết nối hạ tầng giữa viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp.

Luật cũng quy định việc đầu tư phát triển các cơ sở giáo dục đại học trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo; từng bước hình thành các trung tâm nghiên cứu trình độ cao gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, bảo đảm phối hợp hiệu quả với mạng lưới viện nghiên cứu chuyên ngành.

Bên cạnh đó, luật yêu cầu tăng cường hỗ trợ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng; thúc đẩy chuyển giao công nghệ, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, làm chủ và sáng tạo công nghệ. Hoạt động khoa học và công nghệ sẽ được ưu tiên phát triển tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thông qua đầu tư hạ tầng, phát triển nhân lực và chuyển giao công nghệ.

Miễn trách nhiệm dân sự, hành chính, thậm chí hình sự khi rủi ro khách quan

Một trong những nội dung mới đáng chú ý của Luật là quy định rõ ràng về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Theo đó, tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ nếu đã tuân thủ đầy đủ quy trình, quy định và không có hành vi gian lận, vi phạm pháp luật hay sử dụng sai mục tiêu, phạm vi kinh phí thì được miễn trách nhiệm hành chính, dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước. Đồng thời, họ cũng không phải hoàn trả kinh phí nếu kết quả không đạt được mục tiêu đề ra, với điều kiện đã tuân thủ đúng quy định quản lý nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu, biện pháp phòng ngừa rủi ro.

Tương tự, người phê duyệt và quản lý nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước cũng được loại trừ trách nhiệm nếu không vi phạm pháp luật và đã làm đúng quy trình.

Đặc biệt, Luật quy định loại trừ trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự với những rủi ro xảy ra trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Chính phủ sẽ quy định chi tiết điều này, bao gồm tiêu chí xác định rủi ro được chấp nhận và quy trình đánh giá việc tuân thủ quy trình, quy định pháp luật.

Lần đầu tiên Luật xác lập "đổi mới sáng tạo" là một cấu phần cốt lõi, đặt ngang hàng với khoa học và công nghệ.

Đổi mới sáng tạo không chỉ là hoạt động của nhà khoa học mà là nỗ lực toàn xã hội, gắn liền với khởi nghiệp sáng tạo, cải tiến mô hình kinh doanh, sản phẩm và quy trình, nhằm nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế xã hội. Nếu khoa học và công nghệ là nền tảng, thì đổi mới sáng tạo chính là động lực lan tỏa mạnh mẽ, với tiềm năng đóng góp tới 3/4 tỷ trọng trong tổng mức đóng góp 4% của lĩnh vực này vào tăng trưởng GDP.

Khuyến khích nghiên cứu mạo hiểm, đầu tư vào công nghệ đột phá

Luật quy định rõ định hướng chiến lược: hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải gắn với phát triển kinh tế xã hội, tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng bền vững, bao trùm và dựa trên nhu cầu thực tế của thị trường. Doanh nghiệp được xác định là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo.

Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, xây dựng thể chế, thúc đẩy đầu tư, phát triển hạ tầng khoa học công nghệ hiện đại. Các lĩnh vực có tiềm năng tạo đột phá, công nghệ chiến lược sẽ được ưu tiên nguồn lực. Đặc biệt, Luật lần đầu tiên quy định chính sách khuyến khích nghiên cứu mạo hiểm thông qua cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, chính sách chia sẻ rủi ro, đầu tư mạo hiểm và các cơ chế tài chính đặc thù khác.

Cùng với đó, Nhà nước sẽ có chính sách ưu đãi, cơ chế đặc thù để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước; đồng thời phát triển, đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quốc gia.

6-1751015186.jpg

Phòng sạch, Trung tâm Nano và Năng lượng, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi đào tạo và nghiên cứu về bán dẫn

Về tổ chức thực hiện và phân quyền hiệu quả

Luật quy định rõ vai trò và trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương trong việc triển khai các chính sách KH,CN&ĐMST. Đặc biệt, quyền chủ động được trao cho các tỉnh, thành phố nhằm xây dựng và vận hành các chương trình KH&CN phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Thông qua đó, các địa phương được phép thành lập quỹ Đổi mới sáng tạo, trung tâm Đổi mới sáng tạo cấp tỉnh, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo cấp tỉnh, từ đó tạo ra hệ sinh thái sáng tạo đặc thù, gắn liền với tiềm năng địa phương.

Với các tổ chức KH&CN, luật đã mở rộng quyền tự chủ một cách thực chất. Các tổ chức này có toàn quyền quyết định về định hướng nghiên cứu, mô hình hợp tác, quản trị nhân sự cũng như phân bổ nguồn lực tài chính, bao gồm cả việc sử dụng tài sản và phân chia lợi nhuận. Điều này không chỉ xóa bỏ cơ chế xin - cho đã tồn tại lâu nay, mà còn giúp các đơn vị nâng cao tính linh hoạt và năng lực cạnh tranh trong môi trường đổi mới sáng tạo hiện đại.

Bên cạnh đó, luật cũng thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc giải quyết các vấn đề đa lĩnh vực có liên quan đến KH,CN&ĐMST. Những lĩnh vực như y tế, giáo dục, nông nghiệp công nghệ cao, hay năng lượng tái tạo đòi hỏi sự điều phối chặt chẽ và đồng bộ về chính sách, nguồn lực và giải pháp công nghệ. Nhờ cơ chế này, hoạt động KH,CN&ĐMST sẽ được triển khai hiệu quả hơn, hạn chế chồng chéo và nâng cao tính liên thông giữa các cấp, các ngành trong toàn hệ thống.

Luật KH,CN&ĐMST của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với các mô hình thể chế thành công của Hàn Quốc, Singapore, Israel. Tại Hàn Quốc, luật cho phép nhà khoa học tự thương mại hóa công trình nghiên cứu, không cần qua cơ quan chủ quản. Singapore ưu tiên hậu kiểm, tập trung vào hiệu quả và tốc độ ra quyết định. Israel vận hành các trung tâm chuyển giao công nghệ dưới dạng công ty độc lập, liên kết chặt với doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, qua luật mới, cũng đã tiếp cận các xu hướng như: Thúc đẩy nghiên cứu theo hướng ứng dụng; xây dựng mạng lưới trung tâm sáng tạo quốc gia và vùng; thành lập quỹ đầu tư từ nguồn xã hội hóa; khai thác dữ liệu mở và quản lý tài sản trí tuệ theo hướng thị trường. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy Việt Nam không đứng ngoài dòng chảy toàn cầu về đổi mới sáng tạo.

Luật KH,CN&ĐMST không chỉ là văn bản pháp lý, mà là một tuyên ngôn cho phát triển bằng tri thức. Với tinh thần kiến tạo, luật mở ra không gian thể chế mới, thúc đẩy sáng tạo toàn xã hội, khuyến khích thương mại hóa nghiên cứu, phân quyền hiệu quả và gắn kết nghiên cứu với thị trường. Trong hành trình phát triển mới của đất nước, đây là đạo luật nền tảng giúp Việt Nam tăng tốc, cạnh tranh bằng chất lượng trí tuệ, nâng cao năng lực nội sinh và vững bước trên con đường hội nhập toàn cầu.

Khoán chi linh hoạt trong hoạt động nghiên cứu khoa học

Luật cho phép nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được áp dụng cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc khoán chi từng phần theo nội dung nghiên cứu. Trong trường hợp khoán đến sản phẩm cuối cùng, tổ chức chủ trì được tự chủ sử dụng kinh phí, quyết định điều chỉnh giữa các khoản mục chi và quyết toán tổng số kinh phí thực hiện nhiệm vụ.

Trường hợp khoán chi từng phần, tổ chức chủ trì cũng được tự chủ sử dụng kinh phí, trừ một số khoản như mua sắm tài sản, thuê dịch vụ không có định mức hoặc công tác nước ngoài.

Ngoài ra, tổ chức chủ trì được phép sử dụng kinh phí để thuê chuyên gia trong nước và quốc tế theo thỏa thuận, chịu trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, lưu trữ chứng từ và giải trình khi cần thiết.

Luật KHCN, ĐMST có hiệu lực từ ngày 1/10/2025, góp phần thúc đẩy các hoạt động, như: Hình thành sàn giao dịch công nghệ, thúc đẩy chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tháo gỡ rào cản hành chính, tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

 Minh Anh

Theo Phaply.net.vn