Tính đại chúng của thế hệ các nhà thơ trẻ hiện nay nổi bật nhờ phong cách biểu đạt giản dị và khả năng kết nối cộng đồng. Phần lớn họ sử dụng ngôn ngữ thời đại số để phản ánh trực tiếp những vấn đề và cảm xúc trong đời sống
Khái niệm về thơ trẻ từ lâu vốn thiếu sự thống nhất. Nó không chỉ được xác định qua tuổi tác hay thời điểm bắt đầu sáng tác, mà còn bằng giá trị của tác phẩm, dấu ấn cá nhân và khả năng sáng tạo vượt lên chính mình của tác giả. Thơ trẻ hiện nổi bật bởi sự cách tân mạnh mẽ, đa dạng trong cách thể hiện. Các tác giả trẻ không ngừng thử nghiệm hình thức và phương thức biểu đạt mới, phản ánh đời sống đương đại cùng những trăn trở nội tâm. Kế thừa giá trị truyền thống và mở rộng biên độ nghệ thuật, thơ trẻ đã tạo một diện mạo mới, đa dạng hơn trước đây. Tuy nhiên, chính sự đa dạng này cũng đặt ra thách thức trong việc định hình phong cách và bản sắc riêng của mỗi tác giả. Trong bài viết này, tôi sẽ nhìn lại quá trình đổi mới của thơ Việt Nam đương đại gần bốn thập kỷ qua, tính từ thời điểm Đổi mới (1986), qua đó so sánh điểm chung và khác biệt giữa các thế hệ, đồng thời phác họa đôi nét đặc trưng của nền thơ trẻ ngày nay.
Trào lưu cách tân trong thơ Việt Nam khởi từ năm 1986, đây là mốc giới quan trọng trong lịch sử văn chương nước ta. Trào lưu này khai mở bằng “làn sóng” thứ nhất, với sự xuất hiện của ba nhà thơ tiêu biểu là Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh và Nguyễn Lương Ngọc. Các tác phẩm của họ không chỉ tạo bước ngoặt trong diễn trình thơ ca đương đại, mà còn thoát ly khỏi những khuôn mẫu truyền thống, mở ra một trường thơ rộng lớn hơn, đa chiều và đa điểm nhìn hơn. Ngay sau đó, một “làn sóng” cách tân tiếp theo xuất hiện với những nhà thơ tên tuổi như Giáng Vân, Inrasara, Trần Tiến Dũng, Đặng Huy Giang, Lê Vĩnh Tài, Trần Tuấn, Trần Hùng, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương... Những tác giả này đã góp phần đổi mới diện mạo thơ Việt, đặc biệt trong việc khai thác các chủ đề con người, xã hội, cùng những vấn đề tâm linh và siêu hình. Tác phẩm của họ khai mở một thế giới nghệ thuật đầy thử thách, làm thay đổi quan niệm cũ về sáng tạo thơ, đồng thời đưa thơ Việt hội nhập thi đàn quốc tế.

Nhà thơ Nguyễn Phong Việt
Trào lưu cách tân đó đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các nhà thơ trẻ đương thời, tôi tạm gọi thế hệ này là làn sóng thứ ba. Làn sóng này bao gồm những nhà thơ sinh từ thập niên 1980 trở về sau, những người đã tạo nên dấu ấn trong văn học đương đại. Họ không ngừng khám phá, thử nghiệm và đổi mới, với những tên tuổi tiêu biểu như: Vi Thùy Linh, Đoàn Văn Mật, Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Phong Việt, Ngô Thị Thanh Vân, Từ Hồng Sơn, Võ Mạnh Hảo, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lương Kim Phương, Thy Nguyên, Đinh Trần Phương, Nguyễn Thị Thúy Hạnh, Nguyễn Thị Hải, Pháp Hoan, Ngô Thị Thục Trang, Khúc Hồng Thiện, Hoàng Anh Tuấn, Hà Thị Vinh Tâm, Hồ Huy Sơn, Lương Đình Khoa, Phan Tuấn Anh, Kiều Maily, Trần Ngọc Mỹ, Đào Quốc Minh, Bách Mỵ, Lê Hòa, Trần Võ Thành Văn, Nguyễn Nhật Huy, Lữ Thị Mai, Du Nguyên, Lý Hữu Lương, Lê Nhi, Nguyễn Thiên Ngân, Nguyễn Đức Phú Thọ, Nguyễn Thị Kim Nhung, Nguyễn Nhựt Hùng, Lu, Nguyễn Thị Thùy Linh, Trương Công Tưởng, Lê Văn Đồng, Viễn Hải, Ngô Gia Thiên An, Minh Anh...
Trong số các tên tuổi trên, bốn nhà thơ cùng sinh năm 1980 gồm Vi Thùy Linh, Đoàn Văn Mật, Nguyễn Quang Hưng và Nguyễn Phong Việt đã để lại dấu ấn sâu đậm trong làng thơ Việt. Đặc biệt, Minh Anh, sinh năm 2007, là tác giả trẻ nhất hiện nay, từng giành giải A của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2023 với tập thơ song ngữ Anh-Việt Một ngày từ bên trong (Nxb Hội Nhà văn, 2023). Sự xuất hiện của Minh Anh cùng những tác phẩm mới lạ của cô mở ra không gian sáng tạo đầy hứa hẹn cho thơ trẻ đương đại.
Cả ba “làn sóng” thơ sau Đổi mới đều góp phần quan trọng vào quá trình thay đổi diện mạo thơ Việt đương đại. Nếu so sánh các nhà thơ trẻ thuộc làn sóng thứ ba với thế hệ kế cận trước đó, có thể thấy dù có sự khác biệt về quan niệm nghệ thuật, nhưng họ cùng chia sẻ những điểm chung đáng chú ý, đặc biệt là tinh thần bứt phá, nỗ lực vượt khỏi các khuôn mẫu thơ truyền thống. Đội ngũ các nhà thơ ngay sau Đổi mới đã nỗ lực thoát ly ảnh hưởng của thơ cũ, khai thác sâu rộng cảm thức cá nhân và những giá trị phổ quát. Các thế hệ sau đó tiếp tục phát huy tinh thần cách tân thông qua những thử nghiệm về cấu trúc, hình thức và ngôn ngữ thơ, tạo những lối đi mới đầy cá tính sáng tạo. Cả ba “làn sóng” đổi mới đều tập trung biểu đạt căn tính cá nhân và khám phá cái tôi đa diện, phản ánh sự tương tác giữa cá nhân và cộng đồng. Điều này cho thấy thơ Việt đương đại không chỉ là hành trình cách tân về hình thức mà còn mở rộng biên độ cảm xúc và tư duy, tạo nên một dòng chảy đa sắc và đầy sức sống.
Tuy nhiên, thế hệ nhà thơ trẻ đương thời có những điểm khác biệt so với thế hệ trước đó. Nếu tư duy thơ của thế hệ các nhà thơ ngay sau Đổi mới biểu hiện qua ngôn ngữ tượng trưng, hình ảnh siêu thực và ẩn dụ đa tầng, thì thế hệ nhà thơ trẻ lại có cách viết đa dạng và linh hoạt hơn, kết hợp ngôn ngữ đời sống với các yếu tố hiện đại, hậu hiện đại... Họ chủ ý bộc lộ cảm xúc trực tiếp, gần gũi với đời sống thường nhật, qua đó tạo ra kết nối tức thời và sống động.
Bù nhìn làm cứ như chơi/ Lão nông cuốc mấy chân trời còn đau/ Tiểu sành đã hóa đất nâu/ Hồn ông cha vẫn đội đầu nắng mưa. Khổ thơ này của Nguyễn Thị Thùy Linh cho thấy chị đã phục sinh, canh tân giá trị truyền thống trong bối cảnh nông thôn hiện nay, khiến những biến chuyển nhanh chóng của quá trình đô thị hóa trở nên sống động và nhức nhối. Hoặc, như đoạn thơ này của Trần Ngọc Mỹ: Làm sao chúng ta thôi vội vã/ trùng trùng vòng xe chóng mặt/ nhích thêm vài chục xen-ti-mét/ có chạm được bến bờ bên kia?, phản ánh sự hối hả và bồn chồn trong cuộc sống hiện đại; thơ chị thường khơi gợi sự đồng cảm mạnh mẽ nơi người đọc, dẫn dắt họ vào những suy tư sâu sắc và những khoảnh khắc tự vấn nội tâm.
Một trong những cây bút xuất sắc nhất hiện nay là Đào Quốc Minh. Đoạn thơ sau minh chứng cho khả năng phá vỡ khuôn khổ thế giới hiện thực của anh, tạo nên những chuyển động phi lý đầy cuốn hút, khiến người đọc cảm nhận rõ nét sự giao thoa giữa thực tại và giấc mơ: ngọn nến lắt lay trên bàn hoa đã thắp/ nhưng kỳ lạ làm sao làn gió hiu hắt cuối đông/ đã thổi tung chiếc hộp ra khỏi ô cửa cũ/ bay về phía dải đất phù sa trồng đào phai.../ trong ánh nến sáng lập lòa của ngôi nhà bóng đổ... (Tặng phẩm của mùa xuân). Những hình ảnh trên dù mang vẻ bình dị đời thường, nhưng lại dấy lên cảm giác bất an, mơ hồ, đồng thời làm nổi bật sự nghi hoặc khi mạnh dạn vượt qua các khuôn mẫu cổ điển. Thơ anh mở thêm chiều kích suy tưởng, những chồng chéo giữa thời gian, không gian và cảm giác, tạo nên cảm thức đa tầng, phồn sinh, đầy ẩn ý.
Tính đại chúng của thế hệ các nhà thơ trẻ hiện nay nổi bật nhờ phong cách biểu đạt giản dị và khả năng kết nối cộng đồng. Phần lớn họ sử dụng ngôn ngữ thời đại số để phản ánh trực tiếp những vấn đề và cảm xúc trong đời sống, giúp thơ dễ dàng tiếp cận và đồng cảm, đặc biệt với giới trẻ. Bên cạnh đó, họ tận dụng hiệu quả các nền tảng mạng xã hội để chia sẻ và tương tác, khiến thơ không chỉ là một loại hình nghệ thuật mà còn trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần, đồng thời là phương tiện phản ánh thực tại xã hội và tạo ra ảnh hưởng sâu rộng. Nhiều nhà thơ như Nguyễn Thế Hoàng Linh, Nguyễn Phong Việt, Trần Ngọc Mỹ, Thy Nguyên... đã thu hút một lượng lớn độc giả trẻ trên các nền tảng xã hội, khơi gợi được sự đồng cảm từ những trải nghiệm cá nhân, giúp cho thơ trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống đương đại. Trên các trang mạng xã hội, ta dễ dàng bắt gặp những vần thơ của Thy Nguyên, trong đó có bài thơ Vàng Thu nghĩ về mẹ: Mẹ lần giở bồ thóc ẩm/ Tự biết đời đá ngủ/ Tự biết tầng lá thấp/ Tự biết cành cao xanh/ Ăm ắp bội sinh/ Nguyên lành tiếng chim/ Gõ vào tiếc nhớ. Đây là khúc hoài niệm đầy day dứt, nơi tình yêu và sự hy sinh thầm lặng của người mẹ được khắc họa qua những hình ảnh mộc mạc, đời thường. Chính những hình ảnh ấy đã để lại trong lòng người đọc cảm giác trân quý và nghẹn ngào, như một sự tri ân sâu sắc đối với tình mẫu tử. Hay, đoạn thơ sau trong bài Cảm ơn vì chúng ta đã từ chối nhau của Nguyễn Phong Việt: Chúng ta cầm lên một thứ mà quá vội vàng/ nghĩ từ đây sẽ tràn ngập tiếng cười nơi đuôi mắt/ nhưng cũng vì ngây ngô nên yêu thương ấy chưa bao giờ đánh mất/ những hồn nhiên và nước mắt/ của chân thành…; thơ anh tự nhiên như những lời tâm sự mà tràn đầy cảm xúc, biểu đạt những suy tư, trăn trở từ trải nghiệm sống nên có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo đồng cảm sâu sắc trong thế hệ trẻ.
|
Nhà thơ Nguyễn Thiên Ngân
Tính cá nhân và cộng đồng trong các nhà thơ trẻ hiện nay có những biểu hiện khác biệt so với thế hệ các nhà thơ sau Đổi mới. Nếu thế hệ sau Đổi mới đặt mình trong mối quan hệ với những khủng hoảng văn hóa, tinh thần và ý thức hệ, nỗ lực tìm kiếm tiếng nói của cái tôi trong bối cảnh chung, thì thế hệ nhà thơ trẻ hiện nay lại thể hiện xu hướng cá nhân hóa rõ nét hơn. Cái tôi không chỉ là trung tâm sáng tạo mà còn là không gian riêng tư, nơi nhà thơ khai phá những chiều sâu tâm lý, cảm xúc và trải nghiệm mang tính cá nhân độc đáo, ít bị ràng buộc bởi các vấn đề cộng đồng hay ý thức hệ.
Cơn mưa/ trở nên tươi mới/ chiếc lá sắp rơi (Cánh trăng, tr. 83), Cầm lên cánh hoa/ thả rơi/ thêm một lần nữa (Cánh trăng, tr. 35). Bằng thể thơ haiku cổ điển, Đinh Trần Phương biểu đạt sự hồi sinh và làm tươi mới những giá trị truyền thống qua lăng kính hiện đại, mang đến hơi thở mới, trẻ trung và tràn đầy ánh sáng.
Dẫu chủ yếu tập trung phản ánh những suy tư, trải nghiệm và cảm xúc riêng tư, nhưng thơ trẻ hiện nay không tách rời các vấn đề xã hội, mà chú trọng hơn đến môi trường, nữ quyền, và giá trị văn hóa. Thơ trẻ khác biệt ở cách thể hiện: gần gũi đời sống, dễ tiếp cận, lối viết tự nhiên, trực tiếp, tạo sự kết nối mạnh mẽ với độc giả. Thế giới này/ chúng ta đều như quả trứng/ đủ mạnh để bảo vệ bên trong/ nhưng dễ bị vỡ nát (Một quả trứng), khổ thơ ấy của Minh Anh biểu đạt nhận thức sâu sắc về sự mong manh của con người và thế giới, nhấn mạnh việc bảo vệ những giá trị tốt đẹp, trân trọng và gìn giữ một thế giới vừa đẹp đẽ, vừa dễ bị hủy hoại.
Tôi nằm yên nghe gió cuốn lá rơi trên đầu/ Tôi nằm yên nghe lời thở than từ biển cả/ Dưới lòng đất sâu nước đang reo lên vui sướng/ Có tiếng súng nổ đâu đó trong rừng khô mùa thu/ Và đâu đó tiếng dã thú kêu gọi cái ác trong lá mục (Thu). Những vần thơ này của Pháp Hoan là những cảm nhận về đau thương, xung đột và sự khủng hoảng trong thế giới ngày nay, nhưng vượt lên tất cả, chúng vẫn tỏa sáng niềm hy vọng về một đời sống an bình, nơi tình yêu sẽ chữa lành mọi vết thương đau.
Thế hệ sau Đổi mới tập trung vào canh tân ngôn ngữ và biểu tượng, đồng thời vẫn duy trì sự trang trọng, nghiêm cẩn trong cấu trúc thơ. Những nhà thơ như Đặng Huy Giang, Trần Anh Thái, Đinh Thị Như Thúy thể hiện tính tự sự, kết hợp với nhạc điệu truyền thống, giữ gìn những giá trị thi ca cốt lõi. Trong khi đó, thế hệ nhà thơ trẻ đẩy mạnh thay đổi, phá vỡ cấu trúc, mở ra thế giới thơ tự do, phóng khoáng hơn. Họ không chỉ chú trọng đổi mới ngôn từ mà còn kết hợp thơ với các loại hình khác như nghệ thuật thị giác, âm nhạc, mang đến những trải nghiệm mới mẻ cho người thưởng thức. Sự linh hoạt và khả năng kết hợp đa thể loại này giúp thơ trẻ khám phá và định hình những hướng đi mới trong nghệ thuật đương đại.
Thơ Lương Kim Phương là một dẫn chiếu về thơ trẻ, với bối cảnh vừa phóng khoáng vừa huyền ảo, nơi tình yêu và thiên nhiên hòa quyện trong một thế giới vừa lạ vừa quen: Chỉ vẳng một hồ nước trong vắt dưới chân núi/ nụ hôn cuối/ trên gương mặt đẫm sương đêm (Đọc sách của người cũ). Ở đây, tác giả sắp đặt các thi ảnh xa nhau, tạo ra những thanh âm để kết nối, dẫn dắt người đọc vào những liên tưởng bất ngờ.
Động lực sáng tác của thế hệ thơ trẻ hiện nay cũng khác so với thế hệ trước đó. Thế hệ sau Đổi mới xuất phát từ nhu cầu tái định nghĩa con người, lịch sử và văn hóa dân tộc. Với thơ trẻ, các tác giả tìm thấy động lực sáng tác từ những trải nghiệm cá nhân trong một thế giới số hóa và toàn cầu hóa. Thơ của họ tự nhiên hơn và tự do hơn với nhịp sống hiện đại, phản ánh những cảm xúc tức thời, thể hiện bản sắc riêng trong thời kỳ hội nhập. Chẳng hạn như những vần thơ sau của Lữ Thị Mai: Nghe từ mây khói/ Khe khẽ run trong vắt dấu hài/ Bức tranh ấy nào ai vẽ nổi/ Dòng sông lặng lờ/ Toan thở xanh sâu (Vẽ) hay bài thơ Mưa đêm của Lê Nhi: Gào khan những giấc mơ đời/ Sét loé tia bừng tỉnh/ Như reo như mừng ướt sũng/ Khoảng hư vô/ Sau mưa/ Bừng sáng bất ngờ. Cả hai tác giả đều truyền tải những trải nghiệm cá nhân một cách tức thời, tự nhiên và mãnh liệt.
Về ảnh hưởng và vị thế, thơ trẻ hiện nay có sự khác biệt đáng kể so với thế hệ trước đó. Các tác giả trẻ không chịu sức ép phải cách tân triệt để như thế hệ trước, mà phát triển độc lập, phù hợp với nhịp sống hiện đại. Anh nằm co trong đống sách dày/ Sách phủ lên mình anh/ Tấm chăn chữ/ Bụi phủ lên thân anh/ Phù phiếm thở/ Em phủ lên thân anh/ Một đoạn đường trăng/ Trăng phủ thân anh/ Mười lăm năm. Bài thơ Thiên thanh này của Nguyễn Thị Thúy Hạnh cho thấy tư duy cách tân, kết hợp chặt chẽ giữa hình tượng và triết lý. Mỗi câu thơ của chị chồng thêm một tầng nghĩa, câu sau như ôm lấy câu thơ trước, nhưng điểm đặc sắc ở đây là bài thơ không bó lại như một cái kén, mà mở ra sâu hút, vô tận vào bên trong. Khoảng “bên trong” ấy là quãng thời gian mà tác giả đặt định, nhưng với “người đọc” đó là vùng ký ức thênh thang, không biên giới.
Thơ trẻ Việt Nam đương đại ngày càng hiện rõ diện mạo và tầm vóc trong đời sống đương thời. Các tác giả đang tràn đầy nhiệt huyết, khao khát sáng tạo, khám phá những vùng đất mới. Họ không ngừng thực hiện những thử nghiệm táo bạo, từ hình thức biểu đạt đến chiều sâu nội dung, góp phần làm phong phú thêm bản sắc và mở rộng thêm biên độ của thơ. Tuy nhiên, cốt lõi của văn chương không chỉ nằm ở sự khác lạ hay sức lan tỏa nhất thời, mà quan trọng hơn là giá trị lâu bền của tác phẩm - điều này chỉ thời gian và sự lắng đọng trong lòng người đọc mới có thể minh chứng.
Thực tế cũng cho thấy, văn chương chân chính luôn xa rời những “phong trào” hay “đội ngũ” mang tính hình thức. Sự sáng tạo luôn đòi hỏi tính nghiêm túc, niềm đam mê mãnh liệt và quá trình tích lũy tri thức, trải nghiệm sống, cùng khả năng tự làm mới bản thân. Song song với nỗ lực cá nhân, sự thành công của một tác giả đôi khi còn phụ thuộc vào “cơ duyên” - những cơ hội đặc biệt từ cuộc sống riêng, sự đồng cảm của độc giả, hoặc sự công nhận đúng thời điểm từ lĩnh vực văn học.
Trên hành trình khẳng định mình, thơ trẻ Việt Nam rất cần những mối “duyên lành” để tạo bước chuyển mình mạnh mẽ hơn. Hy vọng rằng những tài năng trẻ hôm nay sẽ làm rạng danh thơ ca nước nhà, góp phần đưa văn chương Việt Nam vượt qua ranh giới khu vực, ghi dấu ấn xứng đáng trên bản đồ văn chương quốc tế, như một tiếng nói độc đáo, giàu bản sắc.