
Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là lựa chọn bắt buộc (Trong ảnh: Thủ tướng Phạm Minh Chính đến dự Lễ trao giải thưởng VinFuture lần thứ tư - Ảnh: VGP/Nhật Bắc)
Nhiều chính sách mới đột phá trong dự luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Theo dự thảo tờ trình, một trong những mục tiêu lớn của dự án Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạolà đưa Việt Nam từ một quốc gia sử dụng công nghệ lõi sang làm chủ các công nghệ chiến lược. Tư duy đột phá này được kỳ vọng tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế và an ninh quốc gia.
Đề cập đến một số nội dung mới của dự thảo, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long cho biết, lần đầu tiên, đổi mới sáng tạo được đưa vào và đứng ngang với khoa học công nghệ. Dự thảo Luật bổ sung các cơ chế hỗ trợ cho hoạt động này, đặc biệt là trong doanh nghiệp; thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức hỗ trợ đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm.
Bên cạnh đó, dự thảo luật đã dành riêng một chương với nhiều chính sách nhằm khuyến khích, huy động nguồn lực từ doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động này, được chi cho các hoạt động đầu tư, được tính chi phí khấu trừ thuế (kể cả các dự án khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo).
“Doanh nghiệp là nơi đưa kết quả nghiên cứu khoa học đến với thị trường, tạo ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng. Các chính sách tập trung vào mục tiêu khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kích thích các doanh nghiệp phát triển KH&CN”, ông Long nêu.

Phó Thủ tướng Lê Thành Long trình bày Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN
Dự thảo Luật bổ sung nhiều cơ chế hỗ trợ hoạt động ĐMST, đặc biệt trong doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức trung gian như trung tâm hỗ trợ ĐMST, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và quỹ đầu tư mạo hiểm.
Đổi mới mạnh mẽ trong tư duy quản lý, từ kiểm soát quy trình và đầu vào như hóa đơn, chứng từ chi tiết, sang quản lý kết quả và hiệu quả đầu ra, chấp nhận rủi ro gắn với quản trị rủi ro. Trọng tâm của quản lý nhà nước không còn là cách thức thực hiện mà là kết quả nghiên cứu mang lại và tác động thực tiễn đến phát triển kinh tế - xã hội.
Dự thảo Luật cũng tăng cường quyền tự chủ cho các tổ chức, cá nhân và chủ nhiệm đề tài trong triển khai nhiệm vụ, quản lý bộ máy, chi tiêu theo cơ chế khoán chi, đi kèm với yêu cầu nâng cao trách nhiệm giải trình và minh bạch trong sử dụng nguồn lực.
Tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ được quyền sở hữu kết quả nghiên cứu để thương mại hóa; người làm nghiên cứu được hưởng tối thiểu 30% từ phần thu nhập do kết quả nghiên cứu mang lại và được miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân. Đây chính là động lực đổi mới, thúc đẩy tinh thần dám nghĩ dám làm trong nghiên cứu, nghiên cứu hướng đến kết quả thực tiễn, gắn kết chặt chẽ giữa khoa học công nghệ với phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh các nội dung trên, dự án Luật cũng chuyển nghiên cứu cơ bản về các cơ sở giáo dục đại học. Đây là định hướng lớn của nhà nước, phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc điều chỉnh nhu cầu nghiên cứu cơ bản xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trong nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ tạo sự gắn kết giữa các loại hình nghiên cứu và tăng tỷ trọng nghiên cứu có tác động vào thực tiễn.
Dự thảo không giới hạn quyền phát triển công nghệ của các trường đại học, nhằm thúc đẩy mô hình tích hợp ba chức năng: đào tạo - nghiên cứu - đổi mới sáng tạo. Đây là mô hình phổ biến ở các quốc gia có nền khoa học công nghệ tiên tiến, góp phần xây dựng hệ sinh thái học thuật và đổi mới sáng tạo bền vững, năng động và có sức lan tỏa sâu rộng.
Trước đó, tại phiên họp Thường vụ Quốc hội ngày 15/4, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh việc đẩy mạnh tự chủ và chấp nhận rủi ro nhằm tạo động lực cho các cơ sở nghiên cứu và nhà khoa học.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại phiên họp. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội
Dự luật hướng tới việc trao quyền tự chủ tối đa cho các tổ chức nghiên cứu, bao gồm tự chủ xây dựng bộ máy và chi tiêu theo cơ chế khoán chi. Nhà nước sẽ tập trung quản lý mục tiêu, đầu ra, kết quả và hiệu quả nghiên cứu, thay vì can thiệp vào cách thức thực hiện. Đặc biệt, dự luật đề xuất miễn trừ trách nhiệm dân sự cho các tổ chức nghiên cứu nếu dự án không đạt kết quả như kỳ vọng, nhằm khuyến khích sự dấn thân và đổi mới.
Dự luật cũng đề xuất cơ chế tự chủ về sở hữu và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, cho phép các cơ sở nghiên cứu được toàn quyền quyết định. Nhà khoa học được hưởng tối thiểu 30% lợi nhuận từ thương mại hóa và được tham gia thành lập, điều hành doanh nghiệp.
Để thu hút nhân lực chất lượng cao, dự luật bổ sung các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân, thưởng cho nghiên cứu cơ bản, chia lợi nhuận từ thương mại hóa, và tạo điều kiện về lương, giấy phép lao động, thị thực cho chuyên gia nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa học trọng điểm tại Việt Nam.
Dự luật cũng bổ sung các chính sách như hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, sử dụng ngân sách thuê chuyên gia, khuyến khích tư nhân tham gia nghiên cứu cơ bản, hỗ trợ vườn ươm khởi nghiệp, và mở rộng đối tượng được hỗ trợ tín dụng.
Lần đầu tiên trong Dự thảo Luật, một chương riêng được dành để quy định về các chính sách thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp được trao quyền và khuyến khích mạnh mẽ để đầu tư cho nghiên cứu phát triển, không chỉ bằng nguồn lực của mình mà còn được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước thông qua các chính sách "mồi" tài chính, theo nguyên tắc "Nhà nước chi 1 đồng để thu hút 3-4 đồng từ doanh nghiệp".
Nếu trước đây, ngân sách nhà nước tài trợ cho nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp chỉ được 10% thì thời gian tới sẽ là 70-80%. Dự thảo Luật cho phép doanh nghiệp được hạch toán các khoản chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp như chi phí sản xuất kinh doanh, không còn giới hạn mức tối đa (trước đây là khoảng 1% doanh thu và chỉ áp dụng với doanh nghiệp có lãi). Các khoản chi này còn được tính khấu trừ thuế với hệ số ưu đãi vượt trội là 150% và có thể lên đến 200% nếu đầu tư vào công nghệ chiến lược.
Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết, cơ quan thẩm tra tán thành với quy định chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định để phân biệt với lỗi chủ quan hoặc vi phạm đạo đức nghiên cứu; bổ sung nguyên tắc nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro, tránh lạm dụng.
Cơ quan thẩm tra cũng đề nghị cụ thể hóa vai trò của doanh nghiệp tư nhân và tạo không gian mở cho nghiên cứu tự do.
Đồng thời đề nghị giải trình về tính phù hợp, cơ chế quản lý, nguồn ngân sách chi cho các quỹ, hiệu quả sử dụng khi quy định 5 loại quỹ trong dự thảo luật.
Cân bằng nghiên cứu khoa học tự nhiên và nghiên cứu khoa học xã hội. Kết hợp liên ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để đảm bảo các công nghệ phát triển gắn với bảo vệ các giá trị đạo đức cốt lõi của nhân loại. Phân biệt cách tiếp cận giữa nghiên cứu khoa học (ít định hướng ứng dụng, cần không gian tự do sáng tạo) và phát triển công nghệ (gắn với kết quả đầu ra, ứng dụng thực tiễn). Tùy theo giai đoạn, chính sách sẽ có sự ưu tiên khác nhau. Hiện nay, tập trung nhiều hơn cho phát triển công nghệ để tạo tác động nhanh vào nền kinh tế, trong khi vẫn duy trì nền tảng nghiên cứu cơ bản tại các cơ sở giáo dục đại học, làm cơ sở cho đổi mới dài hạn.
Xác lập hành lang pháp lý vững chắc cho phát triển công nghệ số
Một trong những trọng tâm của Luật công nghiệp công nghệ số là phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, với định hướng chuyển dịch từ lắp ráp, gia công đơn giản sang làm chủ các công nghệ lõi. Điều này sẽ đóng góp quan trọng vào việc xây dựng Chính phủ số, phát triển nền kinh tế số và xã hội số.
Luật cũng quy định các chính sách khuyến khích phát triển đội ngũ nghiên cứu viên, chuyên gia chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ số. Đặc biệt, dự thảo Luật tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ số, khuyến khích các tập đoàn công nghệ lớn đầu tư và thiết lập các trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam.

Ảnh minh họa
Một điểm nổi bật trong dự thảo Luật là việc bổ sung nội dung về công nghiệp bán dẫn và trí tuệ nhân tạo. Công nghiệp bán dẫn được coi là một phân ngành quan trọng của công nghiệp công nghệ số và có vai trò quyết định trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Dự thảo Luật dành riêng Chương 5 để quy định về công nghiệp bán dẫn, từ đó khẳng định đây là một trong những ngành trọng điểm mà Việt Nam cần phát triển, trong đó, tập trung xây dựng chiến lược và cơ chế chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy ngành này phát triển trong từng giai đoạn.
Đáng chú ý, trí tuệ nhân tạo (AI) cũng là một nội dung quan trọng được quy định trong dự thảo Luật. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đề xuất xây dựng nội dung về AI, với định hướng đây sẽ là một trong những công nghệ số cốt lõi của tương lai. Luật đưa ra các nguyên tắc quản lý và phát triển AI, nhấn mạnh AI phải phục vụ sự thịnh vượng và hạnh phúc của con người, đảm bảo minh bạch, trách nhiệm giải trình, công bằng và không phân biệt đối xử.
Tại dự thảo Luật, tài sản số đã được đưa vào nội dung chính của Luật. Tài sản số được định nghĩa là tài sản vô hình, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo ra, phát hành, lưu trữ và chuyển giao trong môi trường điện tử. Những tài sản này được pháp luật bảo hộ như quyền sở hữu tài sản thông qua các quy định về sở hữu trí tuệ và pháp luật dân sự liên quan.
Dự thảo Luật nêu rõ rằng, quản lý tài sản số yêu cầu sự kết hợp giữa công nghệ và quy trình quản lý, đảm bảo tính toàn vẹn, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Đây là một nội dung mới và rất quan trọng, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới trong thời đại số hóa.
Một số ĐBQH nhận xét việc lần đầu tiên đưa ra khái niệm tài sản số trong luật pháp Việt Nam là một bước tiến quan trọng, nhưng cũng cần phải cẩn trọng trong việc rà soát để đảm bảo tính tương thích với các luật hiện hành như Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ.

Ảnh minh họa
Qua nghiên cứu, trao đổi, thảo luận, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thấy rằng, tài sản số là vấn đề mới, phức tạp, phát triển, thay đổi nhanh chóng; hiện nay trên thế giới cũng chưa có khung pháp lý quy định đầy đủ về vấn đề này và vẫn còn có quan điểm khác nhau. Do đó, tiếp thu ý kiến ĐBQH, thống nhất quy định khung về vấn đề này (Điều 13 và Điều 14) như khái niệm, phân loại tài sản số dựa trên mục đích sử dụng, công nghệ và các tiêu chí khác; giao Chính phủ quy định phân loại, thẩm quyền, nội dung quản lý tài sản số, cung ứng dịch vụ tài sản số phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cũng nhận thấy, các quy định về tài sản số trong dự thảo Luật sau khi tiếp thu, chỉnh lý, không chồng chéo, mâu thuẫn với pháp luật hiện hành; không phải sửa đổi Bộ luật Dân sự, Luật Giao dịch điện tử và Luật Chứng khoán.
Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số cũng đề xuất các chính sách ưu đãi đặc thù cho các doanh nghiệp và dự án công nghệ số. Các chính sách này dựa trên nguyên tắc tham chiếu các quy định về đầu tư, thuế, tín dụng và công nghệ cao.
Góp ý vào dự án Luật Công nghiệp công nghệ số tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7, ngày 25/3/2025, Đại biểu Trần Văn Khải - Ủy viên hoạt động chuyên trách tại Ủy ban KH,CN&MT đánh giá dự luật có ý nghĩa quan trọng để thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Qua đó thúc đẩy công nghiệp công nghệ số trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Đại biểu Trần Văn Khải phát biểu thảo luận tại hội nghị
Tuy nhiên, ông cho rằng, dự thảo có bước tiến với quy định cơ chế thử nghiệm nhưng phạm vi thử nghiệm còn hẹp, bỏ sót nhiều đổi mới sáng tạo; đồng thời liệt kê nhiều hành vi bị cấm rất chung chung và đặt thêm một số điều kiện kinh doanh. Theo đó, ĐB Khải kiến nghị mở rộng phạm vi sandbox cho mọi sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới chưa được pháp luật điều chỉnh; đơn giản hóa thủ tục phê duyệt thử nghiệm; và lược bỏ các quy định cấm, điều kiện không thực sự cần thiết. Đồng thời, đại biểu cho rằng cần trao quyền cho Chính phủ tạm thời cho phép thí điểm những công nghệ, mô hình mới chưa có luật điều chỉnh (báo cáo Quốc hội sau) nhằm kịp thời nắm bắt cơ hội phát triển.
Cũng theo ĐB Khải cũng kiến nghị bổ sung các quy định thúc đẩy kinh tế dữ liệu: nguyên tắc "dữ liệu mở" và chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp; hình thành các trung tâm, sàn giao dịch dữ liệu. Đồng thời giao Chính phủ quy định danh mục dữ liệu mở và cơ chế bảo đảm an toàn, quyền riêng tư khi chia sẻ dữ liệu, qua đó tạo động lực cho công nghiệp dữ liệu phát triển đúng tinh thần Nghị quyết 57.
Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa (Lạng Sơn) đề nghị bổ sung chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số nhằm bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn thông tin của tổ chức và cá nhân. Đại biểu Nghĩa nhấn mạnh, đây là một trong những 5 quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị.
Theo đó, trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, cần đặc biệt chú trọng phát triển các công nghệ bán dẫn then chốt, có khả năng ứng dụng trong các lĩnh vực quan trọng như quốc phòng, an ninh và các ngành công nghiệp trọng điểm. Cùng với đó, cần khuyến khích các công ty bán dẫn áp dụng công nghệ xanh và thân thiện với môi trường.
Trước đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về một số vấn đề lớn về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.
Về ưu đãi cho công nghiệp bán dẫn (Điều 44 và Điều 59), Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thấy rằng, để thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng, nắm bắt được thời cơ phát triển công nghiệp bán dẫn, cần nghiên cứu, bổ sung các cơ chế ưu đãi thực sự vượt trội, có tính đột phá, tạo lợi thế cạnh tranh.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy trình bày báo cáo tại Phiên họp. Ảnh: VPQH
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, một số quy định ưu đãi đối với công nghiệp bán dẫn trong Dự thảo Luật đã được chỉnh lý. Cụ thể, điểm c khoản 3 Điều 44 quy định chi phí thực tế cho hoạt động nghiên cứu - phát triển lĩnh vực bán dẫn của doanh nghiệp được tính bằng 150% khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Điểm e khoản 3 Điều 44 quy định Nhà nước hỗ trợ trực tiếp chi phí không quá 10% tổng đầu tư của dự án để đầu tư xây dựng nhà máy, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị máy móc từ nguồn chi đầu tư phát triển từ ngân sách.
Khoản 5 Điều 59 quy định bổ sung điểm c khoản 2 Điều 20 Luật Đầu tư về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đặc biệt đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm, dự án nghiên cứu và phát triển, thiết kế, sản xuất, đóng gói, kiểm thử sản phẩm bán dẫn.
Liên quan đến các chính sách ưu đãi đặc thù, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho rằng, các chính sách này là cần thiết nhưng khác với các quy định của các luật hiện hành có liên quan.
Chẳng hạn như, chính sách được tính vào chi phí được trừ để xác định thu nhập chịu thuế đối với hoạt động nghiên cứu phát triển bằng 150% chi phí thực tế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, khác với quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Hay, quy định về Nhà nước hỗ trợ trực tiếp chi phí không quá 10% tổng đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà máy hạ tầng kỹ thuật đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm và một số dự án bán dẫn, trí tuệ nhân tạo thì khác với Luật Ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, dự Luật Công nghiệp công nghệ số cũng đưa ra chính sách đầu tư, hỗ trợ ưu đãi cho các dự án, doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số nhằm tạo đột phá trong phát triển lĩnh vực này. Do đó, việc bổ sung thêm các nhóm dự án, doanh nghiệp lĩnh vực này được miễn, giảm tiền thuê đất sẽ giúp hỗ trợ quá trình chuyển đổi số hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Ngọc Anh – Trần Dương
Theo Phaply.net