Ảnh minh họa
Bài viết sau tác giả sẽ nghiên cứu phân tích những khó khăn vướng mắc khi thực hiện quyền tư pháp của cơ quan điều tra hình sự đối với các vụ án kinh tế, đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm cải thiện hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
1. Các Quyền tư pháp của Cơ quan điều tra hình sự ở Việt Nam
Thực tế hiện nay, quyền tư pháp ở Việt Nam được xác định có nghĩa rộng hơn so với các nước khác trên thế giới, xuất phát từ sự khác nhau về cách thức tổ chức và quản lý xã hội. Việt Nam tổ chức bộ máy quyền lực Nhà nước để quản lý xã hội dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ theo khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013 “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Theo đó, tại Việt Nam, quyền tư pháp là một trong 3 nhánh quyền lực Nhà nước giao cho cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ án. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ án như Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án thì đều thực hiện quyền tư pháp. Ngoài ra, còn có các hoạt động bổ trợ tư pháp như Luật sư, Công chứng, Đấu giá, Giám định tư pháp... Các cơ quan này có liên hệ mật thiết, tương hỗ nhau trong hoạt động giải quyết vụ án.
Theo dẫn chiếu trên, các cơ quan khác có thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ án cũng là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên mỗi cơ quan lại thực hiện quyền tư pháp khác nhau trong việc giải quyết vụ án. Theo đó, hoạt động điều tra trong giải quyết vụ án là do Cơ quan điều tra hình sự thực hiện.
Quyền tư pháp của Cơ quan điều tra hình sự được thể hiện trong chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Cơ quan này mà cụ thể là trong hoạt động điều tra theo Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Những quyền này nhằm đảm bảo cơ quan điều tra có đủ công cụ và quyền lực để thực hiện công việc điều tra một cách hiệu quả, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự và tăng cường pháp chế và công lý trong hệ thống tư pháp, bao gồm:
(i) Khởi tố vụ án, khởi tố bị can: Cơ quan điều tra có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ cho thấy có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Việc khởi tố có thể được thực hiện theo yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc theo phát hiện từ hoạt động điều tra của cơ quan này. Việc khởi tố vụ án là quyết định tố tụng mở đầu cho một vụ án hình sự, là cơ sở pháp lý để Cơ quan điều tra hình sự tiến hành các hoạt động điều tra để xác định và làm rõ có hay không các dấu hiệu của tội phạm đối với hành vi đã được thực hiện. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can giúp cho việc phát hiện và xác định nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, bởi chỉ khi thông qua điều tra thì mới có đủ điều kiện để làm rõ các dấu hiệu của tội phạm. Nếu việc khởi tố vụ án được thực hiện một cách chậm trễ hay không được tiến hành một cách đầy đủ trình tự thủ tục thì có thể dẫn đến trường hợp bỏ lọt tội phạm hay chậm ngăn chặn kịp thời tội phạm được thực hiện, gây mất an ninh trật tự và các hậu quả khó lường. Các Cơ quan điều tra hình sự sẽ khởi tố vụ án khi “có dấu hiệu” của tội phạm mà không cần đến yếu tố “có đủ dấu hiệu” của tội phạm mới thực hiện khởi tố. Đồng thời, việc khởi tố bị can cũng chỉ được thực hiện cùng hoặc sau khi có quyết định khởi tố vụ án mà không thể được thực hiện trước khi khởi tố vụ án. Bởi vì khi xác định dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra hình sự phải xác định có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra hay không và hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm hay không, sau đó mới xác định ai là người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, có thể thấy rằng khởi tố là giai đoạn độc lập và đầu tiên trong tố tụng hình sự, được bắt đầu kể từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hay kiến nghị khởi tố đến khi ban hành các quyết định khởi tố. Vai trò của giai đoạn khởi tố là vô cùng quan trọng bởi khi có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì mới có điều kiện để thực hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo.
(ii) Tiến hành các hoạt động điều tra và thu thập chứng cứ: Giai đoạn điều tra là giai đoạn tiếp theo sau giai đoạn khởi tố trong tiến trình tố tụng hình sự. Cơ quan điều tra hình sự thực hiện hoạt động điều tra thông qua việc: Triệu tập, lấy lời khai của đương sự; thu thập, kiểm tra, và đánh giá các chứng cứ liên quan đến vụ án hình sự; khám nghiệm, thực nghiệm điều tra; giám định, định giá và áp dụng các biện pháp tạm giam, tạm giữ hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú... Trong tố tụng hình sự thì vấn đề chứng cứ và chứng minh là những vấn đề quan trọng, thuộc quyền hạn và nhiệm vụ trọng tâm của Cơ quan điều tra hình sự, đây là yếu tố quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong đó việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục luật định, đồng thời Cơ quan điều tra hình sự phải làm rõ được 03 thuộc tính của chứng cứ bao gồm tính khách quan, tính liên quan và thu thập chứng cứ hợp pháp. Chứng cứ là căn cứ chính mang tính thiết yếu trong việc xác định hành vi xảy ra là có tội hay không có tội và còn xác định về nguyên nhân, tính chất, mức độ hành vi... của tội phạm, vì vậy nếu thiếu một trong 03 thuộc tính thì sẽ không đủ điều kiện được coi là chứng cứ. Do đó, trách nhiệm của Cơ quan điều tra hình sự là vô cùng quan trọng nhằm xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm cơ sở cho việc truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự và liên quan trực tiếp đến các giai đoạn tố tụng sau này của các cơ quan tố tụng khác như Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án.
Bên cạnh đó, Cơ quan điều tra hình sự còn có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn bao gồm biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh; và biện pháp cưỡng chế gồm: biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản. Mục đích của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, đảm bảo hoạt động cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đồng thời ngăn ngừa nguy cơ tội phạm tiếp tục được thực hiện và phục vụ cho công tác khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, các biện pháp ngăn chặn nêu trên có thể xâm phạm trực tiếp đến quyền nhân thân, quyền con người, do đó việc áp dụng các biện pháp này phải được thực hiện đầy đủ, theo đúng trình tự thủ tục theo quy định pháp luật. Ngoài Cơ quan điều tra hình sự, các cơ quan thực hiện quyền tư pháp khác như Viện kiểm sát, Tòa án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn nêu trên.
(iii) Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo, bị hại và các đương sự khác: Theo Hiến pháp 2013, ở Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Mặt khác, theo nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng quy định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, khi chưa có bản án của Tòa án có hiệu lực thì người bị buộc tội vẫn được coi là không có tội. Do vậy, các quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội vẫn phải được tôn trọng và bảo vệ như các đương sự khác, tuy nhiên, không phải toàn bộ các quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội đều được tôn trọng và bảo vệ mà chỉ được bảo vệ một số quyền nhất định. Bởi theo Điều 14 Hiến pháp 2013 thì Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; và khoản 4 Điều 15 Hiến pháp 2013 quy định việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Theo đó, trường hợp người bị buộc tội có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm lợi ích của quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì sẽ bị hạn chế về quyền của mình theo quy định pháp luật.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra hình sự phải tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, đương sự trong vụ án, trong đó với bị can thì quyền con người được bảo vệ thể hiện qua: Quyền được suy đoán vô tội, quyền bất khả xâm phạm về thân thể... hay các quyền về tố tụng như quyền được biết lý do mình bị khởi tố; quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; quyền được nhận các quyết định tố tụng; quyền được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội, quyền được bào chữa… đối với các đương sự khác có quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm, tài sản,... Đồng thời, Cơ quan điều tra hình sự còn cần thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng để kịp thời đưa ra quyết định hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu thấy có vi phạm quy định pháp luật hoặc không còn cần thiết. Nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được đúng đắn, đảm bảo quyền con người, quyền công dân của các đương sự. Việc thực thi quyền con người của các đương sự trong giai đoạn điều tra còn được kiểm soát và đảm bảo chặt chẽ bởi quy định pháp luật, đồng thời có sự giám sát của các cơ quan Nhà nước như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Viện kiểm sát. Do đó, nếu có bất cứ sự vi phạm quy định về trình tự, thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra mà quyền lợi của các đương sự, nhất là bị can, bị cáo không được đảm bảo thì sẽ trở thành các căn cứ để hủy bỏ các quyết định, khắc phục hậu quả do vi phạm tố tụng như trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra vụ án, hoặc phải bồi thường thiệt hại do hoạt động điều tra gây ra.
(iv) Ban hành kết luận điều tra: Hoạt động chính của Cơ quan điều tra hình sự là hoạt động điều tra, do vậy khi kết thúc việc điều tra thì Cơ quan điều tra hình sự phải có kết quả, báo cáo tổng kết về các công việc, nhiệm vụ mà mình đã thực hiện, đồng thời đề xuất hướng giải quyết tiếp theo của vụ án gọi là Bản kết luận điều tra. Trường hợp có đầy đủ chứng cứ chứng minh có hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra hình sự đề nghị truy tố bị can ra trước Tòa án, trong đó phải làm rõ được các chứng cứ chứng minh tội phạm như nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất mức độ do tội phạm gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nếu có... kèm theo kết luận và những đề xuất giải quyết vụ án dựa trên các lý do đã phân tích và căn cứ pháp luật để đề nghị truy tố. Ngược lại khi hết thời hạn điều tra mà Cơ quan điều tra hình sự không đủ chứng cứ chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không xác định được người thực hiện tội phạm là ai thì phải đình chỉ vụ án. Như vậy, ban hành kết luận điều tra là công tác cuối cùng của Cơ quan điều tra hình sự đối với hoạt động điều tra, trong đó thể hiện tổng hợp toàn bộ kết quả của hoạt động điều tra vụ án hình sự để làm cơ sở quan trọng trong việc chứng minh tội phạm và người phạm tội cho các giai đoạn tố tụng khác như truy tố, xét xử, thi hành án.
2. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quyền tư pháp của Cơ quan điều tra đối với các vụ án kinh tế
Thứ nhất, khó khăn trong việc xác định một số tội danh điển hình về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả:
Mặc dù các quy định pháp luật liên quan đến các tội phạm kinh tế đã được hướng dẫn, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết kịp thời, gây ra sự thiếu đồng nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng bởi lĩnh vực kinh tế là một lĩnh vực rộng, có nhiều chuyên ngành và được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy để xác định có dấu hiệu của tội phạm hay không thì cần thời gian để nghiên cứu, và trao đổi với các cơ quan chuyên môn để có thể xác định chính xác căn cứ khởi tố.
Trong đó, cơ quan điều tra gặp khó khăn trong việc xác định một số tội danh điển hình về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong Bộ luật Hình sự đối với các tình tiết làm căn cứ định tội bởi các tình tiết này chỉ mang tính quy định chung, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích, hướng dẫn cụ thể nên trong quá trình giải quyết vụ án về kinh tế vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa có sự đồng nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Xin nếu một số ví dụ như: Tình tiết “trái pháp luật” tại khoản 1 Điều 188; “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” tại Điều 196; “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” tại các Điều 188 – 192, 195, 197 – 199; “hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá” tại các Điều 192 – 195; “với quy mô thương mại” tại khoản 1 Điều 225 và 226...
Thứ hai, khó khăn trong việc áp dụng một số biện pháp cưỡng chế
Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 128 và Khoản 3 Điều 129 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định chỉ kê biên phần tài sản hay phong tỏa tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại.
Như vậy, để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản hoặc đảm bảo tài sản để thi hành án trong trường hợp bị phạt hay phải bồi thường thiệt hại thì việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như kê biên và phong tỏa là cần thiết. Giai đoạn điều tra là quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án, xác định những dấu vết của tội phạm vì vậy có thể chưa xác định đầy đủ toàn bộ hậu quả của vụ án cũng như mức độ bị phạt của người phạm tội. Trong khi việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cần thiết và phải được áp dụng sớm nên việc pháp luật quy định việc kê biên hay phong tỏa tài khoản chỉ tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại đã gây khó khăn cho công tác điều tra và liên quan tới công tác xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án sau này.
Ví dụ: “Vụ án Tập đoàn Vinashin” là một trong nhiều vụ án kinh tế lớn có giá trị lớn nhưng kết quả thi hành án không hiệu quả, số tiền thu hồi được rất nhỏ so với số tiền phải thi hành án : Mặc dù đã có Bản án hình sự phúc thẩm ngày 30-8-2012 của Tòa án nhân dân (TAND) Tối cao tại Hà Nội, cựu Chủ tịch Tập đoàn Vinashin Phạm Thanh Bình cùng các đồng phạm bị xác định cố ý mua tàu, bán vỏ tàu và nhập các thiết bị công nghệ lạc hậu khi không được phê duyệt, gây thiệt hại gần 1.000 tỷ đồng. Tổng số tiền phải thi hành án là trên 1.144 tỷ đồng, Phạm Thanh Bình phải thi hành án hơn 500 tỷ đồng. Nhưng tính đến năm 2017 số lượng tiền được thu hồi cho nhà nước và cá nhân còn rất nhỏ cụ thể gần 2 tỷ đồng là án phí dân sự, hình sự và tiền phạt gần 2 tỷ đồng đã được thi hành xong. Còn lại số tiền trên 1.142 tỷ đồng thi hành cho cá nhân, tổ chức thì hiện mới thi hành được trên 3 tỷ đồng. Vẫn còn là trên 1.080 tỷ đồng chưa thu hồi được.
Thêm vào đó, pháp luật hiện chỉ quy định việc kê biên tài sản để xử lý trong vụ án hình sự đối với tài sản riêng của bị can. Còn trường hợp tài sản của những người thân thích với bị can thì không bị kê biên trừ trường hợp chứng minh được những tài sản đó là tài sản để trốn tránh nghĩa vụ bồi thường của người phạm tội. Tuy nhiên, hiện pháp luật vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể biện pháp tiến hành trong trường hợp phong tỏa tài khoản hay kê biên tài sản thuộc sở hữu chung giữa bị can với những người khác. Hơn nữa việc xác định tài sản của bị can trong khối tài sản chung còn gặp nhiều khó khăn khó xác định cụ thể đối với một số tài sản chung hợp nhất ví dụ như đất đai, nhà cửa... Vì vậy, nhiều đối tượng đã lợi dụng kẽ hở này trong quy định pháp luật để tìm cách hạn chế hoặc đề nghị việc gỡ bỏ kê biên tài sản.
Điển hình đó là “Vụ án xảy ra ở Cty Gang thép Thái Nguyên” : Trong vụ án, các “bị cáo đầu vụ” được chứng minh có khối tài sản khủng, nhiều tài sản đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra kê biên và phong tỏa trong đó có nhiều bất động sản và tài sản khác có giá trị lớn nhằm tránh sự tẩu tán tài sản. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, các bị cáo đã tận dụng quy định pháp luật còn hạn chế để đề nghị dỡ bỏ kê biên và phong tỏa một số tài sản với lý do là tài sản chung của cả gia đình tạo lập nên và có một số tài sản đã chuyển quyền cho người khác.
Thứ ba, việc trao đổi thông tin, thu thập chứng cứ giữa các cơ quan chuyên môn và các cơ quan liên quan gặp nhiều khó khăn đáng kể.
Cụ thể, việc cung cấp và trao đổi thông tin về vụ án giữa các trong hệ thống tư pháp như Tòa án, Viện kiểm sát, cũng như việc cung cấp tài liệu, chứng cứ và giám định, định giá tài sản của các cơ quan chuyên môn như các cơ quan kỹ thuật hình sự, giám định, thanh tra, ngân hàng, kiểm toán, thuế và hải quan đến cơ quan điều tra còn nhiều trường hợp không kịp thời, dẫn đến những hạn chế trong tiến độ giải quyết vụ án.
Ảnh minh họa
Trong quá trình điều tra, việc trưng cầu giám định và định giá tài sản là cần thiết để xác định thiệt hại, với kết luận giám định, định giá tài sản đóng vai trò then chốt trong việc xác định tội danh và mức độ thiệt hại. Mặc dù các cơ quan giám định đã nỗ lực, nhưng do nhiều nguyên nhân, kết quả giám định thường không đạt yêu cầu, thời gian kéo dài và một số kết luận còn chung chung. Thêm vào đó, nhiều trường hợp trưng cầu giám định không kịp thời hoặc nội dung giám định không phù hợp cũng góp phần làm chậm tiến độ giải quyết vụ án, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, và xây dựng.
Ví dụ vụ án “Trốn thuế” xảy ra tại Công ty Cổ phần K tại tỉnh Bắc Kạn, theo đó trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã gặp nhiều khó khăn khi thu thập chứng cứ, thu thập không đầy đủ dẫn đến những vi phạm tố tụng tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã bị hủy bởi Bản án số 320/2023/HS-PT ngày 15/05/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, bởi một số căn cứ sau :
(i) Các kết luận giám định chưa xác định rõ các bị cáo trong vụ án có giúp Công ty K trốn thuế không (không có nội dung giả định); trốn loại thuế gì, trốn một lần hay trốn nhiều lần và thời giểm từng lần trốn. Trên cơ sở đó mới có cơ cở xác định số tiền trốn thuế, quyết định việc có cộng dồn các lần trốn thuế lại với nhau để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.
(ii) Về xác định người tham gia tố tụng:
a. Cục thuế tỉnh Bắc Kạn là đơn vị trực tiếp quản lý, thu thuế của Công ty K, có trách nhiệm trong việc thu hồi khoản tiền này. Vì vậy cần đưa Công ty K tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
b. Khoản tiền trốn thuế được cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm xác định là thuế thu nhập doanh nghiệp của Công ty K. Vì vậy phải đưa Công ty K vào tham gia tố tụng để buộc Công ty K phải truy nộp khoản tiền trốn thuế.
c. Nhiều cá nhân không làm việc tại Công ty K nhưng bị kê khai khống để trốn thuế cũng cần được xác định là nhân chứng để xác định hành vi lập khống chứng từ của Giám đốc và Kế toán Công ty.
Thứ tư, việc quản lý và xử lý tang vật trong quá trình điều tra còn chưa thông nhất về đầu mối quản lý và cách thức xử lý, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và xử lý tang vật.
Mặc dù, hiện nay việc bảo quản vật chứng được thực hiện theo quy định tại Điều 90, 199 Bộ luật Tố tụng hình sự về Bảo quản vật chứng và Trách nhiệm bảo quản phương tiện, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong; Nghị định số 70/2013/NĐ-CP ngày 02/7/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý kho vật chứng ban hành kèm theo Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ. Tuy nhiên, hiện nay việc xử lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm vẫn chưa có quy định cụ thể mà còn chung chung theo Điều 13 Thông tư liên tịch số 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNNPTNT-BTC-BTP ngày 01/6/2020 quy định: thực hiện theo điểm đ khoản 1 Điều 90 và khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015. Thêm vào đó, cơ sở vật chất phục vụ công tác bảo quản tạm thời chứng cứ, tài sản trong giai đoạn này cũng rất hạn chế như không có tủ bảo quản chuyên dụng trong thời gian giám định.
Ảnh minh họa
Trong các vụ án kinh tế chủ yếu gặp khó khăn khi bảo quản các loại vật chứng có quy mô lớn, có giá trị lớn như: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (các dự án bất động sản), tiền, vàng, kim khí quý, đá quý có giá trị lớn, hàng hóa, máy móc, thiết bị điện tử, vật tư y tế, khoáng sản, thiết bị năng lượng, xăng, dầu, phương tiện vận tải, thuốc, thực phẩm chức năng, ma túy… Việc bảo quản các loại vật chứng phải chi trả kinh phí lớn để thuê bến bãi, kho chứa hàng, kho lạnh bảo quản…; trong khi đó thời gian điều tra kéo dài, thậm chí có vụ án còn bị tạm đình chỉ điều tra, hơn nữa còn các giai đoạn tố tụng khác như truy tố, xét xử nên vật chứng dễ bị hư hỏng, xuống cấp, hết thời hạn sử dụng, mất giá trị. Đến khi xử lý vật chứng thì không tương xứng với tiền thuê, quản lý gây lãng phí và thất thoát cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, công tác xử lý vật chứng chưa được hướng dẫn cụ thể, việc xác định hàng hóa, vật phẩm hay việc bán các vật dễ bị hư hỏng, khó bảo quản còn gặp nhiều lúng túng, và chưa thống nhất. Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy”. Căn cứ theo quy định này thì có thể được bán hoặc tiêu hủy đối với trường hợp vật chứng mau hỏng hoặc khó bảo quản. Nhưng quy định pháp luật lại chưa cụ thể hóa cách phân loại chứng cứ thế nào là mau hỏng, khó bảo quản, vì vậy vấn đề này cũng đã gây ra những vướng mắc, thách thức lớn với cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra.
Ví dụ: trong vụ án Lâm Đình Hưng và đồng phạm buôn lậu thuốc bắc xảy ra tại Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hà Nội, Cơ quan điều tra đã thu giữ hơn 160 tấn thuốc bắc các loại là vật chứng của vụ án. Do số lượng vật chứng lớn, kho vật chứng của cơ quan điều tra không đủ điều kiện để lưu giữ bảo quản nên phải thuê kho lạnh 200m2 của một doanh nghiệp với điều kiện tiêu chuẩn là: nhiệt độ thấp hơn hoặc bằng 200; độ ẩm thấp hơn hoặc bằng 70% với chi phí là hơn 90 triệu đồng/tháng. Kể từ tháng 12/2019 đến nay, chi phí thuê kho ước tính lên tới hơn 2 tỷ đồng, chưa kể các chi phí vận tải, bốc xếp, nâng hạ, kiểm đếm, phân loại .
3. Một số kiến nghị
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, bổ sung các quy định pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra hình sự để có những sửa đổi, hướng dẫn kịp thời phù hợp với yêu cầu của thực tiễn trong việc giải quyết tin báo tố giác, khởi tố, điều tra thu thập chứng cứ, xác định tội danh, nhất là trong bối cảnh tội phạm ngày càng tinh vi và phức tạp, để Cơ quan điều tra hình sự có điều kiện thực hiện tốt nhất quyền tư pháp của mình.
Một số kiến nghị như: Ban hành văn bản quy phạm về sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn về tình tiết định tội, định khung như: “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” tại Điều 196 phải dựa trên nguyên nhân, tính chất, mức độ hậu quả do hành vi gây ra như hậu quả của hành vi phạm tội gây tâm lý hoang mang, mất ổn định đời sống, trật tự xã hội trong một phạm vi dân cư (một xã/huyện/tỉnh), gây khó khăn trong công tác quản lý của chính quyền...; “hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá” là hàng giả được xác định giá trị dựa trên giá trị tương đương với hàng hóa có cùng tính năng, kỹ thuật, công dụng trên thị trường; “với quy mô thương mại” được xác định dựa trên sự vi phạm, mức độ thiệt hại lớn (xác định bằng việc thu lợi bất chính), đưa ra một số lượng hàng hóa nhất định bị vi phạm, quy mô rộng (dựa trên phạm vi địa lý bị ảnh hưởng), nhìn chung để xác định chính xác tình tiết này thì cần phải dựa trên đánh giá thực tiễn, tham mưu ý kiến của các cơ quan chuyên môn.
Thứ hai, đưa ra hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản và phong tỏa tài khoản liên quan trực tiếp đến tội phạm để vừa phòng ngừa việc tẩu tán tài sản, vừa đảm bảo cho việc thi hành án và khác phục hậu quả. Trong đó có biện pháp xử lý sớm đối với các tài sản của tội phạm như “đóng băng” mọi giao dịch, tài sản đối với người phạm tội ngay từ khi khởi tố hay việc sử dụng tài sản có kiểm soát từ cơ quan nhà nước. Đồng thời cần đưa ra phương án xử lý đối với trường hợp tài sản là tài chung của nhiều thành viên cùng tạo lập, trong đó cần xem xét việc có cần thiết hay không cần thiết phải kê biên, phong tỏa toàn bộ tài sản không hoặc thực hiện việc ký quỹ của người phạm tội để đảm bảo tài sản không bị tẩu tán.
Mặt khác, để nâng cao hiệu quả trong việc quản lý tài sản, phòng ngừa tội phạm và có những biện pháp ngăn chặn việc lợi dụng những khoảng trống trong quy định pháp luật để tẩu tán hoặc che giấu tài sản, cần đẩy mạnh phát triển quy định pháp luật về đăng ký và công khai thông tin tài sản. Trong đó công tác nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện sớm Luật Đăng ký tài sản hay thiết chế về công khai tài sản, thu hồi tài sản bất minh là rất quan trọng. Thông qua đó sẽ đảm bảo tính công khai và minh bạch của thông tin về tài sản và thu nhập.
Thêm vào đó, việc phối hợp, kết nối thông tin giữa cơ quan điều tra với các cơ quan quản lý tài sản và các cơ quan khác như công chứng, thuế và thi hành án là cần thiết để tạo ra một hệ thống quản lý đồng bộ và hiệu quả, qua đó tăng cường khả năng phát hiện và xử lý vi phạm liên quan đến tài sản nhằm ngăn chặn hành vi khi có dấu hiệu tẩu tán tài sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.
Thứ ba, với tình hình tội phạm kinh tế có chiều hướng gia tăng về số lượng và ngày càng trở nên quy mô, tinh vi và phức tạp, vì vậy đã đặt ra yêu cầu về việc tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về kinh tế để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ để có thống nhất chung về nhận thức, áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án nghiêm trọng, phức tạp, hạn chế việc thiếu nhất quán về quan điểm giữa cấp trên và cấp dưới hay giữa các cơ quan tố tụng với nhau, cụ thể:
Khi nhận nguồn tin báo về tội phạm hoặc phát hiện có dấu hiệu tội phạm, Cơ quan điều tra cần tập chung nghiên cứu, xác minh và đề ra kế hoạch cơ bản cho việc điều tra vụ án, sau đó cần chủ động phối hợp với Viện kiểm sát và Tòa án để cùng thảo luận và thống nhất về cơ sở và hành vi phạm tội, khoanh vùng mức độ và những vấn đề trọng điểm hoặc cần lưu ý.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra cần thường xuyên trao đổi thông tin, hội ý và đánh giá chứng cứ đã thu thập được và đề ra các mục tiêu, kế hoạch cần thiết để triển khai các biện pháp, hành động có hiệu quả, phối hợp tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc phát sinh. Đồng thời, phối hợp làm việc chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, cơ quan có thẩm quyền như Thanh tra, Kiểm toán, Hải quan... để tăng tính hiệu quả cho quá trình điều tra xác định tội phạm. Đối với những khó khăn khó giải quyết, cần tham mưu thì có thể tổ chức các cuộc họp liên ngành để thống nhất quan điểm chung. Mục đích là nhằm đảm bảo quá trình điều tra tuân thủ đúng quy định pháp luật, loại trừ các vấn đề gây ra vi phạm tố tụng để tránh ảnh hưởng đến quá trình giải quyết cũng như kết quả của vụ án, nâng cao tính minh bạch và công bằng cho hệ thống tư pháp.
Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra vẫn cần chủ động phối hợp, thảo luận với Viện kiểm sát để đánh giá một cách khách quan toàn diện vụ án, khắc phục những thiếu sót để đưa ra một bản kết luận điều tra khách quan và toàn diện.
Thứ tư, cần xây dựng quy định hướng dẫn cụ thể về cách thu thập, phân loại và bảo quản, xử lý vật chứng dựa trên đặc tính của từng loại vật chứng cụ thể để xây dựng trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản, xử lý phù hợp với từng loại vật chứng một cách thống nhất và khoa học. Phải xác định rõ nhóm vật chứng, đồ vật, tài liệu nào cần phải có điều kiện bảo quản đặc biệt để đảm bảo giá trị của vật chứng, hạn chế để hư hỏng, hao mòn tự nhiên, thay đổi kết cấu, tính chất của vật chứng. Đặc biệt đối với các vật chứng mau hỏng và khó bảo quản, bên cạnh việc xây dựng quy trình thu thập, bảo quản chứng cứ cần đưa ra các yếu tố, tiêu chuẩn để phân loại vật chứng (như: thời gian bảo quản ngắn, chỉ có hạn sử dụng hay chỉ bảo quản được trong một khoảng thời gian nhất định; dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng..; bị biến đổi chất lượng: vật chứng có nguy cơ bị thay đổi tính chất, hình dạng hoặc giá trị trong quá trình bảo quản;…), cách thức bảo quản đối với từng loại vật chứng mau hỏng (như: bảo quản đông lạnh, sử dụng chất bảo quản, ngâm trong hóa chất, đóng gói hút chân không…) và xác định cơ quan có thẩm quyền bảo quản (như: cơ quan lưu trữ riêng hoặc cơ quan thi hành án hoặc kho bảo quản đặc biệt của cơ quan điều tra). Thêm vào đó, trong trường hợp cần thiết có thể trưng cầu cơ quan chuyên môn, các chuyên gia để trao đổi phương pháp bảo quản, xử lý phù hợp; đảm bảo đáp ứng yêu cầu, tiến độ điều tra và đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, về yếu tố chủ quan, các điều tra viên cần phải chủ động nắm rõ các tình tiết vụ án, ngay từ khi nhận được các nguồn tin về tội phạm cần xây dựng kế hoạch, chuẩn bị trước các phương án thu thập chứng cứ, xác định nhóm vật chứng, tài liệu, tài sản có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án để tập trung nhanh chóng thu thập đúng trọng tâm và giúp giảm thời gian của giai đoạn điều tra khi đã có điều kiện sàng lọc trước những đồ vật, tài liệu không liên quan.
Thứ năm, cần nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức công vụ của đội ngũ cơ quan điều tra hình sự là một yêu cầu cấp thiết và mang tính chiến lược. Đội ngũ này không chỉ cần có năng lực chuyên môn vững vàng mà còn phải có trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và quyền con người. Bên cạnh đó, việc phân công người có kinh nghiệm, năng lực và trình độ chuyên môn tốt để trực tiếp giải quyết các vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp là hết sức quan trọng. Điều này không chỉ đảm bảo chất lượng điều tra mà còn tạo điều kiện để giải quyết vụ án một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Hơn nữa, cần thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên sâu, bồi dưỡng kiến thức, hội thảo, diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm đặc biệt về lĩnh vực kinh tế, tài chính, chứng khoán… cho đội ngũ cán bộ điều tra để nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
4. Kết luận
Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng việc thực hiện quyền tư pháp của Cơ quan điều tra hình sự trong các vụ án kinh tế tại Việt Nam đang gặp không ít khó khăn. Những khó khăn này cần được nhận diện rõ ràng để có những biện pháp khắc phục kịp thời và hiệu quả. Việc hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực chuyên môn cho lực lượng điều tra, cũng như tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng sẽ góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho công tác điều tra. Để từ đó, không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân mà còn nâng cao hiệu quả trong việc phòng chống tội phạm kinh tế, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam.
----------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh, TS. Nguyễn Thị Thu Hương, Bảo quản, xử lý vật chứng trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 23, 2023.
2. Lã Thị Anh Hoa, Phối hợp giữa các cơ quan tư pháp giải quyết vụ án kinh tế, tham nhũng, https://tapchitoaan.vn/public/index.php/phoi-hop-giua-cac-co-quan-tu-phap-giai-quyet-vu-an-kinh-te-tham-nhung, truy cập ngày 19/9/2024.
3. Trần Thị Thu Hiền, Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2020.
4. Trần Huy Liệu, Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam, Luận án Tiến sĩ Lluật học, Đại học Luật Hà Nội, 2003.
5.Thượng tá, TS. Ngô Phan Nhân, Giải pháp nâng cao hiệu quả hướng dẫn điều tra vụ án hình sự của cơ quan cảnh sát điều tra các cấp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 397), tháng 1/2024.
6. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự.
7. TS. Lê Văn Sáng, Khó khăn, vướng mắc trong bảo quản, xử lý vật chứng trong các vụ án kinh tế và một số giải pháp nâng cao hiệu quả, https://phaply.net.vn/kho-khan-vuong-mac-trong-bao-quan-xu-ly-vat-chung-trong-cac-vu-an-kinh-te-va-mot-so-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-a255547.html, truy cập ngày 19/9/2024.
8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
9. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2003), Giáo trình các cơ quan bảo vệ pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
10.ThS. Lê Thị Hồng Xuân, Một số vấn đề về các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ở Việt Nam hiện nay, https://danchuphapluat.vn/mot-so-van-de-ve-cac-toi-pham-xam-pham-trat-tu-quan-ly-kinh-te-o-viet-nam-hien-nay, truy cập ngày 19/9/2024.
Khổng Vũ Hà
Theo Phaply.net
Mọi chi tiết xin liên hệ số hotline (0915.999.467) hoặc gửi email về địa chỉ (toasoan@phaply.vn).