ĐBQH, TS. Trần Công Phàn, Phó Chủ tịch thường trực Hội Luật gia VN trả lời phỏng vấn báo chí tại Hội thảo khoa học “ Đưa Nghị quyết 66 vào cuộc sống - Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi”

Tại Hội thảo khoa học: “Đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống – Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” do Viện Khoa học pháp lý & Kinh doanh quốc tế phối hợp Tạp chí Pháp lý tổ chức, diễn ra vào 16/9, các đài truyền hình HTV, ANTV, Pháp luật và 20 cơ quan báo chí đã phỏng vấn Đại biểu Quốc hội, Tiến sĩ Trần Công Phàn – Phó Chủ tịch thường trực Hội Luật gia Việt Nam xung quanh những giải pháp, yêu cầu đặt ra đối với các cấp các ngành nói chung và Hội Luật gia VN nói riêng trong tiến trình triển khai đưa Nghị quyết 66 vào cuộc sống
1-1757998296.png

Đại biểu Quốc hội, Tiến sĩ Trần Công Phàn – Phó Chủ tịch thường trực Hội Luật gia Việt Nam trả lời phỏng vấn các đài truyền hình HTV, ANTV, PL và 20 cơ quan báo chí …

PV : Theo ông, đâu là những giải pháp quan trọng nhất cần được triển khai để sớm đưa Nghị quyết 66 sớm đi vào thực tiễn?  

ĐBQH. TS. Trần Công Phàn: Để Nghị quyết số 66-NQ/TW thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước, cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp sau:

Một là, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Đảng giữ vai trò quyết định trong định hướng chính trị, tư tưởng và tổ chức thực hiện. Nghị quyết yêu cầu các cấp ủy Đảng phải trực tiếp lãnh đạo việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, gắn với công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong chấp hành và tuân thủ pháp luật, lan tỏa tinh thần thượng tôn Hiến pháp, pháp luật.” Người đứng đầu bộ, ngành phải chịu trách nhiệm chính về chất lượng chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt.

Hai là, đổi mới tư duy, định hướng xây dựng pháp luật theo hướng kiến tạo phát triển. Nghị quyết khẳng định dứt khoát từ bỏ tư duy“không quản được thì cấm”, đồng thời yêu cầu coi người dân, doanh nghiệp là trung tâm. Các đạo luật phải ổn định, dễ hiểu, dễ thực hiện, đồng thời tạo dư địa linh hoạt để Chính phủ, bộ, ngành, địa phương ban hành quy định cụ thể phù hợp với thực tiễn. Trước mắt, tập trung cải thiện môi trường pháp lý thuận lợi, thông thoáng, chi phí tuân thủ thấp, bảo đảm thực chất quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Ba là, tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật.Một hệ thống pháp luật dù được thiết kế tốt cũng sẽ mất ý nghĩa nếu không được thực thi hiệu quả. Nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật trong toàn xã hội, phát huy tinh thần phục vụ nhân dân, hành động vì lợi ích chung. Cần tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật, đối thoại, lắng nghe phản ánh từ cá nhân, doanh nghiệp để tháo gỡ kịp thời “điểm nghẽn” pháp lý. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong theo dõi, đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật, bảo đảm mọi quy định pháp lý nhanh chóng đi vào thực tiễn.

Bốn là, nâng cao hiệu quả hợp tác và hội nhập pháp luật quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam cần chủ động tham gia định hình các thể chế, trật tự pháp lý quốc tế. Điều này đòi hỏi tăng cường năng lực xử lý tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế, đồng thời xây dựng cơ chế đào tạo, thu hút nguồn nhân lực pháp lý chất lượng cao, có khả năng làm việc trong các tổ chức quốc tế và cơ quan tài phán quốc tế. Đây vừa là yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa là cơ hội để nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Năm là, phát triển nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao, gắn với chuyển đổi số. Nghị quyết coi nhân lực pháp luật là “yếu tố hàng đầu” để bảo đảm thành công. Do đó, cần chính sách đặc thù, vượt trội trong đãi ngộ, thù lao, thuê khoán nhằm thu hút chuyên gia giỏi. Song song, phải ưu tiên phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo phục vụ công tác xây dựng, rà soát, kiểm tra văn bản pháp luật. Việc triển khai ngay các đề án xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật và ứng dụng AI sẽ tạo nền tảng cho một nền quản trị pháp lý hiện đại, minh bạch và hiệu quả.

Hội Luật gia Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp lớn mạnh, hiện có hơn 102 nghìn hội viên ở hầu hết các bộ, ngành, địa phương. Trải qua hơn 70 năm xây dựng và phát triển, Hội đã khẳng định vị trí, uy tín thông qua nhiều hoạt động thiết thực: tham gia xây dựng pháp luật (đặc biệt, Hội được giao trực tiếp chủ trì xây dựng thành công 2 đạo luật), phản biện xã hội, giám sát thi hành pháp luật, phổ biến – giáo dục pháp luật và hỗ trợ pháp lý cho người dân, doanh nghiệp. Hội luôn xác định vai trò nòng cốt trong việc đưa các chủ trương, chính sách lớn của Đảng – trong đó có Nghị quyết 66 – vào đời sống pháp lý và thực tiễn xã hội.

Nhận thức sâu sắc về vai trò của mình trong công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết 66, ngày 1/8/2025, Đảng uỷ Trung ương Hội Luật gia Việt Nam đã thành lập Ban Chỉ đạo gồm các đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng uỷ và đã ban hành Kế hoạch số 42- KH/ĐU-XDPL nhằm quán triệt toàn diện, sâu sắc tinh thần và nội dung Nghị quyết 66 đến tất cả các cấp ủy, chi bộ, cán bộ đảng viên và các cấp Hội từ Trung ương đến cơ sở. Đồng thời Kế hoạch số 42 của Đảng uỷ cũng đề ra 06 nhiệm vụ, giải pháp trọng yếu nhằm thực hiện hiệu quả Nghị quyết 66.

PV: Thông qua Hội thảo hôm nay, Hội Luật gia Việt Nam sẽ có kế hoạch hành động thế nào để tham gia hiệu quả vào đổi mới công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật theo tinh thần NQ 66?

ĐBQH, TS. Trần Công Phàn: (i)Trước hết, Hội Luật gia Việt Namcần đổi mới phương thức hoạt động, từ việc tổ chức các hội thảo đơn thuần sang sử dụng các phương pháp nghiên cứu, khảo sát xã hội học hiện đại để thu thập ý kiến rộng rãi từ người dân và chuyên gia. Điều này sẽ nâng cao tính thuyết phục và cơ sở khoa học của các ý kiến phản biện. Tăng cường sự chủ động, thay vì chỉ chờ đợi các dự thảo được gửi đến, Hội cần chủ động hơn nữa trong việc nghiên cứu, dự báo và đề xuất các vấn đề pháp lý cần được ưu tiên giải quyết trước cả khi các dự án luật được hình thành. Điều này sẽ giúp Hội thực sự đóng vai trò “kiến tạo” theo đúng tinh thần của Nghị quyết 66.

(ii) Chủ động thúc đẩy cơ chế phản biện, giám sát và tham gia hoàn thiện thể chế (phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 66): Thay vì chờ giao nhiệm vụ, Hội LGVN cần chủ động đề xuất và tham gia từ sớm vào quá trình xây dựng các đề án, chiến lược, chương trình cải cách tư pháp và xây dựng pháp luật…..

Chủ động nghiên cứu đề xuất cơ chế tham gia có tính thể chế hóa, chính danh của Hội trong công tác giám sát việc thi hành pháp luật và hoạt động tư phápđề xuất cơ chế để Hội tham gia thực chất, có hiệu quả vào công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, giới thiệu hội thẩm nhân dân, hòa giải viên, trọng tài viên và một số chức danh tư pháp khác; tham gia giải quyết tranh chấp bằng các phương thức thay thế (hòa giải cơ sở các các thiết chế hòa giải khác, đối thoại, trọng tài) theo quy định pháp luật.

(iii)Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý với nhiều hình thức phong phú, đa dạng hơn, như: Triển khai hiệu quả Đề án “Phát huy vai trò của Hội Luật gia các cấp trong phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2024-2030”; Tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm tham nhũng theo quy định và yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; Phát triển mạng lưới tư vấn viên, luật gia trẻ tình nguyện; Nghiên cứu xây dựng các trung tâm pháp luật cộng đồng, hướng về cơ sở (cộng đồng dân cư) gắn với chuyển đổi số; Đề xuất cơ chế chính thức về vai trò Hội LGVN tham gia tư vấn công tác đặc xá, tái hoà nhập cộng đồng đối với các phạm nhân theo quy định của pháp luật

(iv)Tăng cường hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp, nhằm tăng cường nguồn lực cho công tác nghiên cứu, phát triển thông qua việc chủ động tham gia các diễn đàn pháp luật quốc tế, mạng lưới luật gia toàn cầu. Nghiên cứu, tham khảo mô hình tổ chức Hội Luật gia tiến bộ của các nước phát triển, phục vụ quá trình cải cách thể chế tại Việt Nam. Phát huy mạnh mẽ vai trò thành viên của Hội Luật gia dân chủ quốc tế (IADL), Hội Luật gia Châu Á-Thái Bình Dương (COLAP), Hiệp hội luật ASEAN (ALA). Tăng cường hợp tác song phương với 1l tổ chức pháp luật quốc gia mà Hội đã ký kết thỏa thuận hợp tác; tiếp tục mở rộng hợp tác pháp luật với các đối tác khác nhằm triển khai đa dạng, thực chất các hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, đặc biệt là bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam

(v) Ứng dụng công nghệ số vào hoạt động giám sát: HLGVN cần triển khai một dự án thí điểm về giám sát số hóa. Xây dựng một nền tảng trực tuyến để hội viên và người dân có thể báo cáo, phản ánh các hành vi vi phạm pháp luật. Dữ liệu từ nền tảng này có thể được HLGVN sử dụng để phân tích, xác định các điểm nóng và các vấn đề có tính hệ thống trong việc thi hành pháp luật, chuyển từ giám sát mang tính vật lý, cục bộ sang giám sát số, liên tục, trên diện rộng. Kết hợp với chuyên môn hóa trong giám sát, thay vì giám sát dàn trải nên tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực trọng điểm và phức tạp có tác động lớn đến xã hội, như quản lý đất đai và phòng, chống tham nhũng... Việc chuyên môn hóa sẽ giúp Hội sử dụng hiệu quả nguồn lực hạn chế và tạo ra những báo cáo giám sát có chiều sâu, đáng tin cậy.

(vi) Ưu tiên đầu tư nguồn lực cho các đơn vị trực thuộc, gồm: Viện Khoa học pháp lý và Kinh doanh quốc tế, Viện Nghiên cứu pháp luật và kinh tế ASEAN và các Trung tâm tư vấn pháp luật. Đặc biệt là đối với các Viện Nghiên cứu khoa học, cần phải xác định đó là lực lượng quan trọng để giúp Hội Luật gia VN tham gia có chất lượng vào các dự án luật bằng các luận cứ nghiên cứu khoa học và thực tiễn vững chắc, đóng góp tích cực và hiệu quả vào công cuộc đổi mới cải cách hệ thống pháp luật. Đối với các Trung tâm tư vấn pháp luật trong toàn hệ thống Hội, cần xác định đó chính là tiềm năng để Hội Luật gia VN phát huy có hiệu quả việc cung cấp các "dịch vụ pháp lý, hỗ trợ pháp lý, trợ giúp pháp lý cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận pháp luật", phù hợp với tinh thần Nghị quyết 66 đặt ra.

(vii) Nghị quyết 66 yêu cầu thực hiện chính sách đặc thù, vượt trội, áp dụng chế độ thù lao, thuê khoán tương xứng để thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia các nhiệm vụ, hoạt động xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật. Đây là cơ cở pháp lý để Trung ương Hội vận dụng xây dựng và kiện toàn đội ngũ nhân lực đảm bảo có hiệu quả. Theo đó cần kiện toàn cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực của Hội (từ Trung ương Hội đến các cấp Hội) theo hướng chuyên nghiệp hơn. Trung ương Hội cũng cần nghiên cứu xây dựng Bộ quy tắc đạo đức rõ ràng và nghiêm ngặt, được phổ biến rộng rãi và có cơ chế giám sát việc tuân thủ để đảm bảo các luật gia hoạt động một cách chuyên nghiệp và liêm chính. Đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường tổ chức các khóa học, hội thảo chuyên đề trực tuyến qua các nền tảng video conference và e-learning, cho phép cán bộ ở các cấp cơ sở dễ dàng tiếp cận các kiến thức, kỹ năng mới về tư vấn, phản biện, kỹ năng phổ biến giáo dục pháp luật.

(viii) Nhân rộng các mô hình hoạt động hiệu quả. Đồng thời xây dựng các mô hình hoạt động chuyên nghiệp hơn, có khả năng tự chủ tài chính, để thu hút các nguồn lực xã hội khác.

Phát biểu chỉ đạo Hội thảo, TS. Trần Công Phàn, Phó Chủ tịch thường trực Hội Luật gia Việt Nam, nhấn mạnh:

Nghị quyết 66-NQ/TW không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là “đòn bẩy” thể chế để Hội Luật gia Việt Nam vượt qua những khó khăn, khẳng định vai trò của mình một cách mạnh mẽ hơn. Đồng thời đặt ra trách nhiệm quan trọng cho giới Luật gia trong việc góp phần kiến tạo hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, minh bạch, khả thi và thượng tôn Hiến pháp – để pháp luật thực sự trở thành động lực trung tâm cho phát triển đất nước. Tinh thần của Nghị quyết 66 đã mở ra một không gian và yêu cầu mới để Hội Luật gia Việt Nam phát huy vai trò của mình một cách mạnh mẽ hơn.

Thường vụ Đảng uỷ, Thường trực Hội Luật gia Việt Nam mong quý đại biểu, nhà khoa học phân tích làm rõ vai trò, thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết 66 -NQ/TW.

Sự  thành công của Hội thảo hôm nay sẽ tạo  hiệu ứng lan tỏa và góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 42/KH-ĐUXDPL của Đảng uỷ Trung ương Hội Luật gia Việt Nam về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW.

Trần Hơn – Minh Trung
Theo Phaply.net.vn